Những sự thật ít ai biết về Thành Bình Lỗ

Thành Bình Lỗ, một công trình phòng thủ chiến lược trong cuộc kháng chiến chống quân Tống của Lê Đại Hành, chứa đựng nhiều sự thật bí ẩn mà ít người biết đến. Nơi đây không chỉ là dấu ấn của tài thao lược mà còn là bằng chứng cho sức mạnh đoàn kết và trí tuệ của nhân dân Đại Cồ Việt trong việc bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Thành Bình Lỗ ở đâu?

Năm 980, ngay sau khi Hoàng hậu Dương Vân Nga tôn Lê Hoàn lên làm vua, ông đã lập tức lãnh đạo quân đội chống lại cuộc xâm lược của Đại Tống. Khi đó, Lê Hoàn chỉ có 3.000 Thiên tử quân trong thành Hoa Lư nhưng ông quyết định đưa toàn bộ lực lượng này tiến về phía Bắc để đối đầu với 3 vạn quân tinh nhuệ của Đại Tống.

Dù đối diện với nguy cơ Bắc thuộc trở lại rất gần, Lê Hoàn vẫn bình tĩnh vạch ra kế hoạch đối phó. Một trong những điểm mấu chốt của chiến lược này là bố trí trận địa mai phục tại Bình Lỗ, nơi ông đã tạo nên bước ngoặt cho chiến thắng.

Thành Bình Lỗ là một địa danh được giữ bí mật suốt nhiều thế kỷ. Mãi đến năm 1300, trước khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn qua đời ông mới hé lộ với vua Trần Anh Tông về vị trí và vai trò của thành cổ này trong lịch sử.

Theo lời kể của ông, nhờ sự đồng lòng của nhân dân và các tướng tài, Lê Hoàn đã xây dựng thành Bình Lỗ để chặn đứng quân Tống, lập nên một chiến công vang dội trong lịch sử bảo vệ đất nước.

Thành Bình Lỗ là biểu tượng của sự thông minh và tài thao lược của các tướng lĩnh Đại Việt, đồng thời là dấu mốc quan trọng trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc.

Sử liệu hé lộ sự thật về cuộc chiến chống Tống năm 981

Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bảy quyển sách cổ ghi chép về chiến thắng chống quân Tống năm 981. Quyển cổ sử đầu tiên là Thiền Uyển Tập Anh (TUTA), ra đời vào khoảng năm 1228, chuyên ghi chép về các tông phái Thiền học và sự tích của các Thiền sư, trong đó có Đại sư Khuông Việt.

Theo sách này, vào năm 981 khi quân Tống xâm lược, vua Lê Đại Hành đã sai Đại sư Khuông Việt cầu đảo, sau đó quân Tống hoảng sợ và rút lui. Trận đánh được cho là diễn ra tại quận Bình Lỗ, nơi ngày nay được biết đến thuộc khu vực Sóc Sơn – Hà Nội.

 

Sơ đồ khu vực cửa sông Cà Lồ. Tại đây có nhiều dấu tích của trận đánh Tống năm 981

Sơ đồ khu vực cửa sông Cà Lồ nơi có nhiều dấu tích của trận đánh Tống năm 981

Ngoài Thiền Uyển Tập Anh, còn sáu quyển cổ sử khác cũng ghi lại chiến thắng chống Tống năm 981:

  1. Việt Điện U Linh Tập (1329) ghi lại rằng quân Tống đóng tại làng Tây Kết, nhưng chưa đánh đã kinh hãi và bỏ chạy sau khi gặp sóng to, gió lớn.
  2. Việt Sử Lược (1377), ghi lại rằng vua Lê Đại Hành dẫn quân chống Tống, cắm cọc ngăn sông, đánh lừa Hầu Nhân Bảo và chém được ông ta, khiến quân Tống phải rút lui.
  3. Đại Việt Sử Lược (1377-1388) chép tương tự, nhấn mạnh vào việc cắm cọc ngăn sông và dùng kế trá hàng để dụ Nhân Bảo.
  4. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1697) cũng ghi lại trận đánh này, miêu tả việc đóng cọc ở sông Chi Lăng và chém Nhân Bảo.
  5. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (1884) ghi rằng sau khi dụ bắt được Nhân Bảo, quân Tống do Lưu Trừng và Khâm Tộ lãnh đạo đã phải rút lui.
  6. Việt Nam Sử Lược (1919) của Trần Trọng Kim ghi lại chiến thắng tương tự, nhấn mạnh vào việc chém Hầu Nhân Bảo tại Chi Lăng.

Dù các sách cổ đều ghi chép về chiến thắng này, các nhà chép sử lại đề cập đến bốn cái tên sông khác nhau: sông Hữu Ninh, Chi Giang, Ninh Giang và sông Chi Lăng. Điều này dẫn đến sự tranh cãi về tên gọi thực sự của con sông nơi diễn ra trận đánh lịch sử này.

Sự thật về tên các con sông trong trận Bình Lỗ

Khi xét bốn tên sông được đề cập trong các tài liệu cổ như Hữu Ninh, Chi Giang, Ninh Giang và Chi Lăng, ta có thể loại trừ việc có một con sông hay đường bộ nào xuyên qua từ Lạng Sơn (nơi có ải Chi Lăng) đi về phía Nam trong thời kỳ này. Trong các tư liệu sử Tống cũng không ghi chép về trận đánh nào xảy ra tại Chi Lăng, Lạng Sơn vào năm 981.

Theo chú thích của Lê Mạnh Thát, bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1697) có thể đã bị sao chép nhầm. Do kiêng húy vua Lê Duy Ninh, người chép sử có thể đã thay chữ “Ninh” (寧) thành “Lăng” (稜) và chữ “Hữu” (友) cũng có thể đã bị nhầm với chữ “Chi” (支). Điều này cho thấy sông Chi Lăng được nhắc đến trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thực chất chính là sông Hữu Ninh và trận chiến chiến lược năm 981 đã xảy ra tại sông Hữu Ninh, không phải sông Chi Lăng.

Vậy sông Hữu Ninh nằm ở đâu trong quận Bình Lỗ? Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái, trận đánh đã xảy ra tại sông Đồ Lỗ, là một đoạn của sông Cà Lồ gần Đò Lo ngày nay. Truyện kể rằng vua Lê Đại Hành đã mộng thấy âm binh từ phía nam sông Bình Giang và phía bắc sông Như Nguyệt đánh trại giặc.

Sau này, các nhà nghiên cứu đã xác định Bình Giang là tên cũ của sông Cà Lồ, còn phía bắc sông Như Nguyệt là đoạn sông Cầu từ cửa sông Cà Lồ ngược lên phía bắc. Điều này cho thấy trận đánh đã diễn ra tại hạ lưu sông Cà Lồ, phù hợp với vị trí của sông Hữu Ninh.

Cái tên sông Chi Lăng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (KĐVSTGCM) chỉ là sao chép từ Đại Việt Sử Ký Toàn ThưViệt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim đã hiểu sai khi gán Chi Lăng với địa danh tại Lạng Sơn.

Những cái tên khác như Chi Giang (trong Việt Điện U Linh Tập) và Ninh Giang (trong Việt Sử Lược) đều có thể là do chép nhầm từ chữ “Hữu”. Tên Hữu Ninh có nghĩa là nhánh sông bên phải của sông Ninh và Ninh Giang cũng là tên cũ của sông Cầu.

Từ đó, ta có thể xác định trận chiến năm 981 thực sự diễn ra trên sông Hữu Ninh, thuộc khu vực hạ lưu sông Cà Lồ ngày nay, phù hợp với cả bảy quyển sách cổ sử đã ghi chép về chiến thắng này.

Vị trí và vai trò đặc biệt của sông Hữu Ninh

Sông Hữu Ninh chính là đoạn hạ lưu của sông Cà Lồ, một trong ba con sông chính cách đây hàng triệu năm có vai trò chuyển tải nước và phù sa từ hệ thống sông Hồng sang hệ thống sông Thái Bình. Nhiều đoạn của sông Cà Lồ còn đóng vai trò là ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

Sông này bắt nguồn từ xã Trung Hà, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc và uốn khúc qua nhiều khu vực trước khi hợp lưu với sông Cầu tại ngã ba Xà, thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Đến đầu thế kỷ 20, phía đầu nguồn của sông bị bịt lại, không còn nối với sông Hồng nữa.

Đoạn hạ lưu của sông Cà Lồ chịu ảnh hưởng từ dãy núi Tam Đảo, nơi nhiều gò đồi chắn ngang đường làm thay đổi dòng chảy. Hai nguồn nước từ sông Hồng và sông Cầu gặp nhau, khiến dòng sông uốn khúc nhiều lần từ Phù Lỗ đến cửa sông, tạo ra một số nhánh sông nhỏ. Các nhánh này từng bị các con đê thời Trần và Hậu Lê chặn lại, chỉ còn lại một nhánh chảy ra sông Cầu.

Đặc biệt, tại tọa độ 21°23′ vĩ độ Bắc và 105°91′ kinh độ Đông, có một gò đất hình móng ngựa với đường kính khoảng 700 mét, cao hơn hẳn so với khu vực xung quanh. Hơn 2/3 chu vi của gò đất này được bao bọc bởi dòng sông Cà Lồ. Theo giả thuyết, gò đất này có thể chính là vị trí của thành Bình Lỗ mà Hưng Đạo Vương từng nhắc đến trong sử sách.

Hai bờ sông Cà Lồ ngày xưa còn phủ kín rừng rậm, lầy lội và dân cư thưa thớt, việc di chuyển chỉ có thể thực hiện bằng thuyền bè qua các kênh rạch. Để củng cố phòng thủ trước sự xâm lăng, vua Lê Đại Hành đã ra lệnh cho quân sĩ “xây thành Bình Lỗ” và “đóng cọc ngăn sông”.

Theo tài liệu Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào, vào tháng 2 năm 981, quân do thám dưới sự chỉ huy của Bát tác sứ Hác Thủ Tuấn đã “theo lối đường sông đến tận chỗ đất giặc” và phát hiện có một công trình lớn đang được “khơi đào rộng ra.”

Để phát huy tác dụng của trận địa mai phục ở Bình Lỗ, nhà vua đã sử dụng kế trá hàng, dụ quân Tống tiến sâu vào sông Hữu Ninh.

Theo sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng, Hầu Nhân Bảo dẫn đầu vạn quân xông vào trận địa, nhưng quân cứu viện phía sau đến không kịp. Quân của Hầu Nhân Bảo bị vây chặt và rơi vào hỗn loạn, dẫn đến cái chết của Nhân Bảo khi bị loạn quân giết và quẳng xác xuống sông. Cả vạn quân của ông bị bao vây trong đoạn sông Hữu Ninh và phải cố gắng chiếm thành Bình Lỗ nhưng bị quân Đại Cồ Việt chống trả quyết liệt.

Dấu tích của trận chiến ác liệt vẫn còn hiện diện ngày nay tại khu vực chân gò đất cao, nơi sông Cà Lồ tách thành hai nhánh. Tên gọi “Ngòi Ác” lưu lại như một minh chứng cho cuộc giao tranh dữ dội năm 981.

Dọc theo nhánh sông bị vùi lấp còn để lại nhiều dấu tích như “Ngòi Ác”, “Cầu Cửa Ma”, “Đầm Lâu” và “Bờ Xác” trải dài từ gò đất cao đến bờ sông Cầu ở cuối làng Như Nguyệt. Những cái tên này là minh chứng cho sự khốc liệt của trận chiến lịch sử đó.

Bản đồ lưu vực sông Cà Lồ và quận Bình Lỗ

Bản đồ lưu vực sông Cà Lồ và quận Bình Lỗ

Chiến thắng Bình Lỗ mở đầu thời kỳ 1000 năm giữ nước

Theo sử liệu, năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân và thành lập nhà nước Đại Cồ Việt, trong khi phải đến năm 979, nhà Tống mới kiểm soát xong các nước phía nam tiếp giáp với Đại Cồ Việt. Sự kiện này tương tự như khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945 trước Trung Quốc bốn năm (năm 1949).

Việc thành lập Đại Cồ Việt sau hơn 1000 năm Bắc thuộc đã trở thành một thách thức không thể chấp nhận đối với một đế chế Trung Hoa hùng mạnh. Với tham vọng bành trướng, ngay năm sau, vào năm 980, nhà Tống đã bắt đầu có những hoạt động quấy nhiễu và nhòm ngó biên giới của Đại Cồ Việt. Các thế lực bên trong và ngoài nước âm mưu chia rẽ và phá hủy nhà nước non trẻ này.

Nhận biết rõ điều đó, Lê Đại Hành đã nghiên cứu kỹ lưỡng kế hoạch phá Tống, ông dựa vào địa hình núi non hiểm trở của đất nước và huy động toàn dân tham gia. Trận địa mai phục ở Bình Lỗ, nơi diễn ra chiến thắng lừng lẫy, được đặc biệt giữ bí mật.

Nhà vua tin tưởng giao nhiệm vụ này cho Đại sư Khuông Việt, cháu nội của Ngô Quyền, thay vì các nhà sư có gốc gác Trung Hoa, vốn nhiều ở Đại Cồ Việt thời bấy giờ. Kết quả, quân và dân Đại Cồ Việt đã giành được chiến thắng vang dội tại Bình Lỗ, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử.

Sông Hữu Ninh và thành Bình Lỗ, nơi diễn ra trận chiến, nằm trong vùng căn cứ kháng chiến của hai anh hùng Trương Hống và Trương Hát thời Triệu Việt Vương. Để tôn vinh công lao của hai vị trong việc bảo vệ nước Vạn Xuân, dân làng Tiên Tảo (xã Việt Long, Sóc Sơn) đã dựng đình và đúc tượng thờ họ, thể hiện lòng biết ơn đối với các anh hùng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm.

Theo khảo sát, thành Bình Lỗ không phải là một tòa thành kiên cố, mà là một hệ thống công sự phòng thủ vững chắc dựa vào điều kiện tự nhiên và vật liệu sẵn có trong vùng. Quân Đại Cồ Việt đã dựng hàng rào tre gỗ ken dày chắn dòng nước, trên bờ đắp các ụ đất xen lẫn lũy tre, tương tự thành Cổ Loa và chiến tuyến sông Như Nguyệt.

Dưới lớp đất đáy sông khoảng 1,5 m, người dân làng Ngọc Hà đã tìm thấy 20 cây cọc gỗ cổ, dài từ 6-8 m cùng nhiều mảnh cổ vật sành sứ. Trong khu vực còn nhiều dấu tích như Thành Phủ của họ Trương ở làng Ngọc Hà và Đền Xà, nơi ăn mừng chiến thắng Bình Lỗ của quân dân Đại Cồ Việt.

Trận đánh tại Bình Lỗ có hiệu quả lớn, khi một vạn quân tiên phong của Hầu Nhân Bảo bị tiêu diệt hoàn toàn, khiến quân Tống kinh hoàng trong nhiều năm sau. Chiến thắng Bình Lỗ là một mốc son trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Thành Bình Lỗ còn là nơi xuất hiện bài thơ Nam quốc sơn hà. Trong giấc mộng, vua Lê Đại Hành gặp hai thần Trương Hống, Trương Hát đến phù giúp và quân Tống đã phải kinh hoàng khi nghe tiếng thần ngâm bài thơ, khiến chúng tán loạn bỏ chạy.

Thời kỳ đầu dựng nước, nhiều chiến công và thành tựu đã phai mờ theo thời gian. Hy vọng những nghiên cứu về trận Bình Lỗ sẽ giúp phục hồi và ghi dấu những trang sử oai hùng của dân tộc.

Ý nghĩa của chiến thắng Bình Lỗ

Cuộc kháng chiến chống Tống năm 980-981 đã giành thắng lợi hoàn toàn nhờ vào sự khéo léo của Lê Đại Hành trong việc lợi dụng địa hình sông ngòi và bố phòng hợp lý, khiến quân Tống không thể thực hiện kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Kế trá hàng và công tâm của ông đã làm các tướng Tống mất cảnh giác, dẫn đến thất bại.

Chiến thắng Bình Lỗ để lại bài học quý báu về chiến tranh nhân dân, chứng minh rằng một quốc gia nhỏ bé nhưng đoàn kết và có chỉ đạo sáng suốt có thể chiến thắng những thế lực lớn mạnh hơn. Đây cũng là kinh nghiệm từ quá trình bảo vệ nhà nước Đại Cồ Việt sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, đồng thời ghi dấu bằng thành Bình Lỗ và bài thơ bất hủ Nam quốc sơn hà.

Mặc dù ngày nay gò đất cao bên sông Cà Lồ và các vết tích thành Bình Lỗ đã không còn nguyên vẹn, những dấu tích còn sót lại cùng tài liệu lịch sử đã chứng minh đây chính là địa điểm của tòa thành nổi tiếng này. Chiến thắng Bình Lỗ trở thành bài học quan trọng cho các triều đại về sau.

Thành Bình Lỗ không chỉ là di tích gắn liền với chiến thắng vẻ vang của Đại Cồ Việt, mà còn là biểu tượng cho tinh thần đấu tranh kiên cường của dân tộc Việt Nam. Những sự thật ít được biết về tòa thành này càng làm nổi bật tầm quan trọng lịch sử và giá trị của nó trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Việc nghiên cứu và tìm hiểu thêm về thành Bình Lỗ giúp ta hiểu rõ hơn về quá khứ và tiếp nối tinh thần bảo vệ độc lập đất nước.

Những điều bạn chưa biết về thành cổ Bình Dao Trung Quốc