Tôn Thất Dương Kỵ: Nhà Chính Trị Tài Năng Triều Nguyễn

Cuộc đời và sự nghiệp của Tôn Thất Dương Kỵ gắn liền với những thăng trầm lịch sử của triều Nguyễn. Xuất thân từ dòng dõi hoàng tộc, ông không chỉ là một nhà chính trị tài năng mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa và giáo dục. Những cống hiến của ông trong việc bảo vệ lãnh thổ đến việc tham gia các hoạt động xã hội đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước nhà.

Cuộc đời và sự nghiệp Tôn Thất Dương Kỵ

Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ có tên khai sinh là Nguyễn Phúc Dương Kỵ  Ông sinh ngày 19 tháng 1 năm 1914 tại làng Thủy Vân – xã Vân Dương – huyện Hương Thủy – tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình quan lại quý tộc thuộc triều Nguyễn. Dòng dõi của ông bắt nguồn từ Từ Sơn công Nguyễn Phúc Mão, con út của vua Gia Long.

Ông gọi Nguyễn Phúc Mão là ông cố nội, trong khi thân sinh của ông, ông Thể Linh (chắt của vua Gia Long, cháu nội của ông Mão) mất sớm khi ông chỉ mới 9 tuổi. Mẹ ông là bà Nguyễn Đình Thị Tiếp. Nhờ vào truyền thống gia đình và sự kiên trì tự học, ông đã tích lũy được kiến thức uyên thâm cả về Tây học lẫn Nho học.

Chân dung Tôn Thất Dương Kỵ

Chân dung Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ

Ngay từ thời trẻ, ông đã gia nhập ngạch Thừa phái của triều đình Nguyễn và giảng dạy tại trường Khải Định. Với kiến thức sâu rộng, ông đã viết nhiều bài khảo luận về văn, sử, địa đăng trên tạp chí Tri Tân dưới bút danh Mãn Khánh. Năm 1936, ông đạt giải Nhất trong cuộc thi văn chương tại miền Trung với chủ đề “Vấn đề di dân lập làng ở miền Trung“.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông đảm nhiệm vị trí Thư ký Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên (1945-1946) và quản lý tuần san Đại Chúng. Từ năm 1947 đến 1955, ông tiếp tục giảng dạy tại trường Khải Định (nay là Quốc học Huế) và bí mật vận động trí thức ủng hộ Việt Minh.

Năm 1949, ông sáng lập và biên tập tạp chí Tiến Hóa, nhưng sau một năm tờ báo bị chính quyền Pháp đình bản. Năm 1954, ông xuất bản tập văn “Ngày Mai” ủng hộ đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, nhưng chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã đóng cửa tờ báo và bắt giam ông.

Một số tài liệu của giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ

Một số tài liệu của Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ

Sau khi ra tù năm 1955, ông vào Sài Gòn giảng dạy tại các trường Marie Curie, Đại học Văn khoa và Đại học Vạn Hạnh. Năm 1962, ông tham gia Phong trào Dân tộc tự quyết Việt Nam và Ủy ban Vận động Hòa Bình Việt Nam nhưng lại bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam. Ông chỉ được thả tự do sau cuộc Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963.

Năm 1964, ông bí mật tham dự Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam với bí danh Dương Kỳ Nam và được cử làm Ủy viên Ủy ban Trung ương của tổ chức này.

Tháng 3 năm 1965, ông bị bắt và trục xuất ra miền Bắc. Cuối năm 1965 ông trở lại miền Nam tham gia vào việc thành lập Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa Bình Việt Nam và được bầu làm Tổng thư ký của Liên minh.

Từ năm 1977, ông đảm nhiệm vai trò Ủy viên Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phụ trách nhân sĩ và trí thức các tỉnh phía Nam. Ông qua đời ngày 20 tháng 10 năm 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh sau một cơn bệnh nặng.

Gia đình Tôn Thất Dương Kỵ

Ông kết hôn với bà Trần Xuân Huệ Phương, cháu nội của Đề đốc Trần Xuân Soạn. Cả hai ông bà có 9 người con và tên của họ được ghi lại trong Gia phả Phòng Từ Sơn công như sau:

  1. Tôn Nữ Quỳnh Diên (sinh năm 1938)
  2. Tôn Thất Quỳnh Đệ (sinh năm 1940)
  3. Tôn Nữ Quỳnh Như (sinh năm 1943)
  4. Tôn Nữ Quỳnh Trân (sinh năm 1944)
  5. Tôn Nữ Quỳnh Diệu (sinh năm 1946)
  6. Tôn Nữ Quỳnh Uyển (sinh năm 1948)
  7. Tôn Thất Quỳnh Tiễn (sinh năm 1950)
  8. Tôn Nữ Quỳnh Chi (sinh năm 1952)
  9. Tôn Thất Quỳnh Vinh (sinh năm 1954)

Gia đình ông bà có truyền thống quý tộc và gắn bó chặt chẽ với dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn.

Tôn Thất Dương Kỵ không chỉ là một nhà chính trị có tầm ảnh hưởng mà còn là người có những đóng góp đáng kể trong nhiều lĩnh vực khác như văn hóa và giáo dục. Cuộc đời ông là minh chứng cho tinh thần tận tụy và trách nhiệm với đất nước. Di sản mà ông để lại đã góp phần xây dựng và phát triển xã hội mang lại những giá trị lâu bền cho lịch sử Việt Nam.