Phan Kế Toại – Vị Bộ trưởng hết lòng vì nước, vì dân

Phan Kế Toại, Bộ trưởng Bộ Nội vụ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là một tấm gương sáng về lòng tận tụy và đức độ. Từ những ngày làm quan đến khi trở thành bộ trưởng, cụ luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu và thể hiện tinh thần liêm chính, an dân. Cùng tìm hiểu hành trình cống hiến không ngừng nghỉ của cụ trong bài viết dưới đây.

Hành trình cống hiến của Phan Kế Toại

Cụ Phan Kế Toại (1892-1973) sinh ra tại làng Mông Phụ – xã Đường Lâm – thị xã Sơn Tây – Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình quan lại, cha là Cử nhân Phan Kế Tiến, từng giữ chức Tuần phủ tỉnh Phúc Yên.

Ngay từ nhỏ, cụ đã đã được giáo dục theo Nho học sau đó ra Hà Nội học trường Tây và trường Hậu bổ (Trường Hành chính quốc gia). Năm 1911, cụ nhận học bổng của chính quyền bảo hộ để du học tại Trường Hành chánh thuộc địa Paris, Pháp. Khi trở về nước năm 1914, cụ được bổ nhiệm làm Tri huyện Hương Sơn – Hà Tĩnh và sau đó là Tuần phủ, Tổng đốc các tỉnh Phúc Yên, Bắc Ninh, Thái Bình.

Chân dung Bộ trưởng Phan Kế Toại

Chân dung Bộ trưởng Phan Kế Toại

Ngày 9/11/1947, tại chiến khu Việt Bắc trong phiên họp của Hội đồng Chính phủ, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Phan Kế Toại được bổ nhiệm làm Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ, thay cho cụ Tôn Đức Thắng nhận công tác mới.

Cuộc đời cụ Phan Kế Toại là minh chứng cho sự tận tụy vì dân, dù khi còn là quan đại thần thời Nam triều hay khi đảm nhận vai trò Phó Thủ tướng – Bộ trưởng của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Các thành viên Hội đồng Chính phủ kháng chiến ở Việt Bắc, năm 1951.

Các thành viên Hội đồng Chính phủ kháng chiến ở Việt Bắc, năm 1951. (Trong ảnh, hàng ngồi từ trái qua phải: Linh mục Phạm Bá Trực, cụ Phan Kế Toại, Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Tôn Đức Thắng, đồng chí Hoàng Đạo Thúy.)

Phan Kế Toại – Đức dày lưu hậu mãi đời sau

Tôi về làng Mông Phụ – xã Đường Lâm – thị xã Sơn Tây – Hà Nội để tìm hiểu về cụ Phan Kế Toại. Qua thăm nhà thờ Phan tộc – nhà thờ họ Phan Kế – tôi nghe người dân kể rằng, đất này xưa thường trồng dưa hấu, dưa gang. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra và Đại chiến thế giới lần thứ 2 sắp xảy ra, dưa của Đường Lâm bán rẻ như cho.

Thấy cảnh khó khăn, cụ Phan Kế Toại nghĩ phải tìm một giải pháp lâu dài thay vì chỉ trợ cấp tạm thời. Cụ bàn với các chức dịch trong làng mời một người thợ từ vùng Chuông (Thanh Oai – Hà Đông, nay là Hà Nội) về dạy cho dân cách làm nón lá, áo tơi lá. Từ đường họ Phan trở thành nơi dạy nghề hàng ngày, dân làng đến học rất đông.

Khi dân làng đã có nghề, cụ Phan còn đứng ra xin “cô-ta” của nhà máy sợi Nam Định để dân làng dệt gia công. Nhờ có “bông” (thẻ nhận sợi), dân làng có nguyên liệu để làm hàng và kiếm thêm thu nhập. Đường Lâm từ cảnh đói kém trở nên nhộn nhịp hơn hẳn và người dân luôn ghi nhớ công lao của cụ Phan Kế Toại vì đã mang nghề về làng, giúp họ ổn định cuộc sống.

Theo tư liệu gia phả dòng họ Phan Kế ở Đường Lâm, có câu: “Làng ta có câu đồng dao rằng: ‘Cụ Tú thì lắm con trai; Con đỗ Tú tài, cháu đậu Cử nhân; Nhà cụ phúc đức muôn phần…'” được lưu truyền đến tận ngày nay.

Cụ Tú là cụ Phan Công Chấn – người khai khoa cho dòng họ Phan ở Đường Lâm và là cụ cố của Phó Thủ tướng Phan Kế Toại. Năm 1879, cháu nội cụ Phan Công Chấn là Phan Kế Tiến đỗ Cử nhân, xếp thứ 3 trong 40 người của khoa thi. Năm 1880, dù không đỗ kỳ thi Hội, nhưng nhờ điểm cao cụ được triều đình bổ làm Tri huyện Lệ Thủy (Quảng Bình). Đường quan lộ của cụ Phan Kế Tiến có nhiều thăng trầm từ Tuần phủ Nam Định, Phúc Yên đến khi về trí sĩ năm 1916. Con trai cụ, Phan Kế Toại tiếp nối học hành và từng sang Paris du học rồi trở về làm Tuần phủ Phúc Yên.

Xuất thân từ một gia đình danh giá, Phan Kế Toại từ nhỏ đã được học Nho, sau đó học trường Tây ở Hà Nội và nhận học bổng du học Trường Hành chánh thuộc địa Paris.

Năm 1914, ông trở về nước và bắt đầu sự nghiệp quan trường từ vị trí Tri huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh), sau đó làm Tri phủ, Tuần phủ, Tổng đốc các tỉnh lớn như Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Hà Đông, Quảng Yên, Nam Định và nhiều tỉnh khác. Ở bất kỳ vị trí nào, ông luôn lấy chữ “Liêm chính” và “An dân” làm gốc, thực hiện chính sách trọng đạo nghĩa, giúp đời sống dân chúng ổn định.

Noi theo truyền thống gia đình, cụ Phan Kế Toại luôn ghi nhớ lời dạy của cụ Phan Kế Tiến trong gia phả họ Phan:

Cái thân ta này phủ ngưỡng không đến nỗi thẹn thò, ở trong gia tộc xiết bao lòng hiếu kính, khi ra với nước, với thiên hạ mà tâm hành có thưởng, con cháu không cũng vinh hiển sao? Gia môn chẳng cũng cao đại sao? Người trước xây dựng, con cháu tiếp nối, giữ gìn mãi, lâu dài không bỏ, có đức dày lưu hậu được sáng tỏ, ơn nước phúc nhà trường cửu như trời đất vậy.

Thương dân – Dân lập bàn thờ

Có người từng cho rằng, sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, chính quyền thực dân Pháp, phát xít Nhật và Nam triều đều bị lật đổ, con đường quan lộ của Khâm sai đại thần Bắc Bộ Phan Kế Toại tưởng chừng như đã “đứt gánh”. Tuy nhiên, nhờ chính sách đoàn kết, trọng dụng trí thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Phan Kế Toại đã có cơ hội tiếp tục cống hiến và thực hiện lý tưởng của mình.

Vậy điều gì đã khiến cụ Phan Kế Toại – một Khâm sai đại thần Bắc Bộ dưới thời Chính phủ Trần Trọng Kim do phát xít Nhật chiếm đóng và là Tổng đốc tỉnh Thái Bình dưới thời thực dân Pháp cai trị – được chính quyền mới tín nhiệm giao trọng trách tại Bộ Nội vụ? Chính là nhờ vào tài năng, đức độ cùng tiếng thơm về sự “liêm chính” và “an dân” mà cụ Phan Kế Toại đã để lại khi còn đứng đầu các địa phương.

Theo tư liệu trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ thị xã Thái Bình (1927 – 2000)“, khi Mặt trận Việt Minh ở Thái Bình muốn xin phép thành lập Chi hội Truyền bá Quốc ngữ, cụ Phan Kế Toại khi ấy là Tổng đốc, đã hết lòng ủng hộ. Nhờ sự đỡ đầu của cụ, các hoạt động Truyền bá Quốc ngữ không bị sở mật thám gây khó dễ và việc mở các lớp học buổi tối để dạy chữ cho người lao động cũng diễn ra suôn sẻ.

Danh tiếng của cụ Phan Kế Toại càng rõ nét hơn vào đầu năm 1945, khi nạn đói bắt đầu bùng phát ở Thái Bình. Ngày 27/4/1945, Hoàng đế Bảo Đại đã ra chiếu chỉ bổ nhiệm cụ làm Khâm sai đại thần Bắc Bộ. Trong dịp chia tay về Hà Nội, theo yêu cầu của Mặt trận Việt Minh, cụ đã đồng ý cấp thêm 100 tấn gạo để cứu đói cho người dân.

Sinh thời, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng từng được chứng kiến lòng dân nơi cụ Phan Kế Toại làm quan. Một lần khi công tác tại Thái Bình, Thủ tướng nhận được một lá thư kèm hai tấm chân dung cụ ông, cụ bà Phan Kế Toại từ một gia đình nông dân. Nội dung thư ghi:

Kính thưa ông, tôi nay đã già, không thờ các cụ được bao lâu nữa. Vậy tôi nhờ Thủ tướng chuyển giúp hai tấm chân dung này cho con cháu cụ Phan Kế Toại để làm lưu niệm

Lá thư được ký tên bởi ông Hoàng Văn Khảm, hiện sống tại Hải Phòng.

Qua nội dung lá thư, có thể thấy gia đình này đã thờ cúng cụ Phan Kế Toại từ những năm cụ còn làm Tổng đốc Thái Bình. Khi ông Khảm chuyển đến Hải Phòng, ông vẫn mang theo chân dung hai cụ để thờ.

Đầu năm 2000, có lẽ dân chúng nghĩ rằng Thủ tướng Phan Văn Khải là hậu duệ của cụ Phan Kế Toại, nên đã nhờ thực hiện lời dặn của ông Khảm. Hai năm sau, vào tháng 2/2002, Thủ tướng Phan Văn Khải đã đích thân trao lại hai tấm chân dung cho họa sĩ Phan Kế An, con trai trưởng của cụ Phan Kế Toại.

Cụ Phan Kế Toại tuy chưa được lập đền nhưng việc một quan đại thần được người dân lập bàn thờ tự nguyện trong nhà là điều hiếm có. Trong lịch sử 75 năm qua của đất nước, dù chủ trương là đánh đổ phong kiến, nhân dân vẫn tự nguyện thờ phụng một quan đại thần phong kiến như cụ Phan Kế Toại. Điều đó cho thấy đức độ và sự thanh liêm của cụ là hiếm có. Một đời làm quan, mấy ai đạt được điều này?

Những người thân trong gia đình ông Phan Kế Toại

Những người thân trong gia đình ông Phan Kế Toại

Cuộc đời và sự nghiệp của Bộ trưởng Phan Kế Toại là minh chứng cho lòng yêu nước, đức độ và sự cống hiến không ngừng vì lợi ích của nhân dân. Cụ đã trở thành một tấm gương sáng về đạo đức và trách nhiệm, được mọi người nhớ đến không chỉ vì tài năng mà còn bởi sự tận tụy, liêm chính suốt đời. Tinh thần ấy vẫn còn nguyên giá trị, truyền cảm hứng đến nhiều thế hệ sau này.

Lê Uy Mục – Vị “Vua Quỷ” Tàn Bạo Nhất Lịch Sử Nhà Hậu Lê