Nguyễn Đăng Đạo – Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Tài Đức Của Việt Nam
Nguyễn Đăng Đạo – Lưỡng Quốc Trạng Nguyên của Việt Nam, không chỉ nổi tiếng với tài học xuất chúng mà còn với tấm lòng liêm chính, luôn quan tâm đến đời sống nhân dân. Sinh ra trong gia đình nhà nho, Nguyễn Đăng Đạo sớm thể hiện tài năng thiên bẩm, đạt đến chức Tể tướng Thượng thư và luôn giữ trọn đức liêm khiết. Từ câu chuyện ông từ chối ruộng lộc đến việc ông cùng vợ cứu đói cho dân, tất cả đã khắc ghi hình ảnh một vị quan hết lòng vì dân, được vua Lê và người dân kính trọng.
Nguyễn Đăng Đạo là ai?
Nguyễn Đăng Đạo (1651–1719) là một danh nhân xuất sắc của lịch sử Việt Nam, nổi tiếng với danh hiệu Lưỡng Quốc Trạng Nguyên. Ông quê ở làng Hoài Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Được biết đến là một người học thức uyên thâm, ông đỗ Trạng Nguyên vào năm 1683 dưới triều vua Lê Hy Tông. Sự nghiệp của ông không chỉ ghi dấu trong nước mà còn khiến triều đình nhà Thanh (Trung Quốc) phải công nhận tài năng, từ đó ông được tôn vinh là Lưỡng Quốc Trạng Nguyên.
Chân dung Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Nguyễn Đăng Đạo
Nguyễn Đăng Đạo đã trải qua nhiều chức vụ quan trọng, từ Hàn lâm Viện Thị giảng cho đến Tham tụng (tương đương với chức Tể tướng), được triều đình nhà Lê trọng dụng bởi sự tận tụy và tài năng xuất sắc.
Ông là người có nhiều đóng góp trong cải cách hành chính, xây dựng triều chính ổn định và phát triển giáo dục. Tài năng văn chương và đạo đức của ông cũng để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử văn hóa Việt Nam, là niềm tự hào cho quê hương Bắc Ninh và cả dân tộc Việt.
Cuộc đời Lưỡng Quốc Trạng Nguyên – Nguyễn Đăng Đạo
Sinh ra trong vùng đất giàu truyền thống học vấn, Nguyễn Đăng Đạo xuất thân từ một gia đình nhà nho nổi tiếng, có mẹ là bà Ngọc Nhĩ – một người phụ nữ thông minh, nhân hậu, được người đời kính trọng. Từ nhỏ, ông đã thể hiện trí tuệ vượt trội và lòng say mê học hành, quyết chí theo đuổi sự nghiệp của gia đình.
Truyện kể lại rằng, khi bà Ngọc Nhĩ mang thai trong một đêm hè trăng sáng bà ra giếng lấy nước và nhìn thấy một ngôi sao lớn rơi vào thùng nước. Bà dùng khăn bịt thùng và đem về nhà. Khi bà kể chuyện này cho ông Nguyễn Đăng Cảo, người bác ruột của Nguyễn Đăng Đạo, ông coi đó là điềm lành và khuyên bà dùng nước này để nấu ăn.
Đến ngày sinh, bà hạ sinh một bé trai khôi ngô và đặt tên là Nguyễn Đăng Đạo. Ngay khi sinh ra, cậu bé được bà đỡ nhận xét là có tướng Trạng Nguyên và phải chăm sóc chu đáo.
Khi mới một tuổi, Nguyễn Đăng Đạo đã được bác ruột – Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo – quý mến và thường cho theo bên mình, kể cả khi đi tiếp sứ nhà Thanh. Thám hoa Cảo từng tự hào nói rằng: “Ta tuy không được đỗ Trạng nguyên, nhưng đứa bé này nhất định sẽ thành Trạng nguyên”.
Năm ba tuổi, Nguyễn Đăng Đạo đi theo bác ra biên giới tiếp sứ Thanh, khiến quan sứ bất ngờ vì sự nhanh nhẹn và tháo vát và gọi ông là “kỳ đồng”. Tại nhà thờ Nguyễn Đăng Đạo hiện vẫn lưu giữ đôi câu đối:
Tam tuế kỳ đồng kinh sứ Bắc
(Ba tuổi kỳ đồng đi tiếp sứ phương Bắc)
Thập niên tể tướng trọng triều Nam
(Mười năm sau làm tể tướng nức tiếng triều Nam)
Lên 16 tuổi, ông đỗ Tam Trường và ba năm sau thi đỗ Hương Cống. Nhờ tài học phi thường, ông vào Quốc Tử Giám học tập và nhanh chóng được bạn bè kính phục. Năm 1683, ông đỗ Trạng Nguyên trong kỳ thi Đình.
Trong giai đoạn 1688-1697, sách sử như Việt sử thông giám cương mục và Lịch triều hiến chương loại chí ghi lại nhiều vụ tranh chấp biên giới giữa Đại Việt và nhà Thanh.
Đầu năm 1697, triều đình Đại Việt phái sứ đoàn gồm Nguyễn Đăng Đạo, Nguyễn Thế Bá, Đặng Đình Tướng và Nhữ Tiến Hiền sang Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) để dâng quốc thư, yêu cầu vua Thanh trả lại ba động đất đã bị chiếm.
Nguyễn Đăng Đạo cùng sứ đoàn sang Yên Kinh dâng quốc thư đòi lại đất
Nguyễn Đăng Đạo đã trình bày lý lẽ sắc bén và cung cấp bản đồ chứng minh lãnh thổ Việt Nam. Mặc dù chưa thể lấy lại đất, nhưng những lập luận sắc sảo của ông khiến vua Thanh nể trọng và theo tương truyền phong ông là Lưỡng quốc Trạng Nguyên để ghi nhận tài năng.
Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đăng Đạo
Nguyễn Đăng Đạo từng để lại một tập thơ có tên “Nguyễn Trạng Nguyên phụng sứ tập” (tập thơ sáng tác trong thời gian đi sứ của Trạng Nguyên Nguyễn Đăng Đạo), nhưng hiện đã thất truyền. Chỉ còn tám bài thơ xướng họa được Lê Quý Đôn chép lại trong Toàn Việt thi lục và hai tấm bia ghi công đức ở hai xã vùng Kinh Bắc do chính tay ông viết.
Tám bài thơ hiện còn của Nguyễn Đăng Đạo chủ yếu là họa vần cùng các bạn đồng liêu khi nghỉ quan. Trong đó, ông chia sẻ tình cảm với những người bạn đồng triều, trân trọng những năm tháng đã lựa chọn sống theo đạo nhà nho và thành tựu đạt được:
Mây lành rực rỡ đến cùng ai?
Võng lọng tôn vinh khách quí đài.
Lúc trẻ từng vang danh kẻ sĩ,
Tuổi già càng rạng vẻ cân đai.
Bệ rồng phủ dụ khi từ tạ,
Bè bạn tâm giao lúc phản hồi.
Năm tháng vô cùng dày phúc thọ,
Tính trời thơ rượu thú đầy vơi.
(Dịch từ bài “Thứ vận hạ Đô cấp sự trung Bùi Công Phụ trí sĩ”)
Trong một bài họa vần khác gửi người bạn đồng khoa, Nguyễn Đăng Đạo đã bày tỏ cảm xúc chân thành, đồng thời như một lời tổng kết cuộc đời quan chức và sự thanh thản khi về quê hương hưởng tuổi già:
Thư sinh hiển đạt phẳng đường quan,
Tuổi tác nay đà bảy chục niên.
Một mảnh tờ hưu dâng tới đó,
Mấy tình ưu ái đức vua ban.
Nâng chén hiền tài duyên phận định,
Gối kê con cháu phúc chan chan.
Ngoảnh mặt đông phương mờ cát bụi,
Trượng phu thi hứng mãi dâng tràn.
(Dịch từ bài “Thứ vận hạ Thái thường tự khanh Đào Tuấn Ngạn trí sĩ”)
Những bài thơ này thể hiện tấm lòng thanh cao của Nguyễn Đăng Đạo, một con người sống trọn đạo với quê hương và lý tưởng nho gia, khiêm tốn trước danh lợi và trân trọng những giá trị giản dị trong cuộc sống.
Nguyễn Đăng Đạo: Vị Tể Tướng liêm khiết và hết lòng vì dân
Nguyễn Đăng Đạo dù đã giữ chức vị cao như Tể tướng Thượng thư vẫn luôn ghi nhớ nỗi khốn khó của người dân. Ông thường xuyên quan tâm đến đời sống của dân chúng, đặc biệt trong những lần về quê, ông không chỉ thăm hỏi mà còn động viên người dân nỗ lực lao động và học hành.
Tôn trọng tín ngưỡng làng quê, ông đã dành tiền xây dựng và trùng tu các đình, chùa. Trong đó, chùa Bách Môn được cho là đã được tu bổ nhờ vào sự đóng góp của ông.
Một câu chuyện về lòng liêm khiết của Nguyễn Đăng Đạo vẫn được dân làng Hoài Bão truyền lại. Khi triều đình ban cho ông ruộng lộc, ông từ chối không nhận. Sau nhiều lần được vua và triều thần thuyết phục, ông nhận một cánh đồng hoang, đầy cỏ dại gọi là “cánh đồng cầu Vực”. Ông đã cho các gia đình nghèo phát cỏ, cải tạo thành ruộng cấy lúa, rồi chia ruộng cho từng hộ gia đình.
Nhân dân còn ghi nhớ công ơn Nguyễn Đăng Đạo vì đã cứu đói cho dân làng vào một năm mất mùa. Khi ấy, ông viết thư về khuyên phu nhân phát thóc gạo cứu trợ và cấp giống cho bà con gieo mạ. Nhờ hành động này mà người dân vượt qua nạn đói và vụ mùa tiếp theo bội thu. Dân làng đã truyền tụng công lao của ông qua câu ca:
Không có tiền quan Trạng,
Dân ta làm sao sống yên lành.
Không có lúa của quan Trạng,
Dân ta làm sao nuôi nhau được.
Đức của Tướng công,
Công ơn của Tướng công,
Trải muôn đời nhắc nhở khôn cùng.
Nguyễn Đăng Đạo đã làm Đô đài Ngự sử suốt 30 năm, sau đó được thăng Tham tụng và rồi trở thành Thượng thư Bộ Lễ, kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Bá. Ông là vị quan tài đức, thanh liêm và luôn vì lợi ích nhân dân, được cả dân chúng và sĩ phu quý trọng.
Ông qua đời năm Kỷ Hợi (1719) khi 68 tuổi, được truy phong Thượng thư Bộ Lại và tước Thọ Quận công. Vua Lê Dụ Tông đã tôn vinh ông bằng bốn chữ “Lưỡng quốc Trạng nguyên” và đôi câu đối:
Tiến sĩ Thượng thư thiên hạ hữu
(Đỗ Tiến sĩ làm Thượng thư thì thế gian có nhiều)
Trạng nguyên Tể tướng thế gian vô
(Đỗ Trạng nguyên làm đến Tể tướng thì thế gian hiếm có)
Ngoài ra, vua còn sáng tác một bài thơ điếu ông và phong ông làm phúc thần. Người dân Hoài Bão tôn ông làm Thành Hoàng và đời đời thờ cúng.
Toàn cảnh đền thờ Nguyễn Đăng Đạo
Nguyễn Đăng Đạo để lại cho hậu thế không chỉ danh hiệu cao quý Lưỡng Quốc Trạng Nguyên mà còn là biểu tượng của sự thanh liêm, tận tụy và lòng yêu dân sâu sắc. Hành trình của ông là minh chứng cho trí tuệ và phẩm hạnh người Việt, đồng thời là nguồn cảm hứng lớn lao cho các thế hệ về sau. Nhờ đức độ và công lao của mình, Nguyễn Đăng Đạo đã được triều đình và dân chúng tôn vinh, lưu danh mãi mãi trong lịch sử.