Câu chuyện kỳ lạ về Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Tống Trân

Truyện Nôm và vở chèo Tống Trân – Cúc Hoa được nhiều người biết đến, nhưng câu chuyện về vị Lưỡng Quốc Trạng Nguyên từ ngàn năm trước đã trở thành một huyền tích bí ẩn, khó lý giải.

 Câu chuyện Tống Trân - Cúc Hoa nổi tiếng trong huyền sử

Câu chuyện Tống Trân – Cúc Hoa nổi tiếng trong huyền sử

Tống Trân – Kẻ ăn xin thi đỗ Trạng Nguyên

Tương truyền rằng, vào thời vua Lý Nam Đế, tại xã An Đô – tổng Võng Phan – huyện Phù Dung (ngày nay là thôn An Cầu – xã Tống Trân – Phù Cừ – Hưng Yên) có một người họ Tống tên là Thiệu Công, xuất thân từ gia đình có nền tảng văn chương và nếp sống hiếu đễ. Vợ của ông là bà Đào Thị Cuông.

Hai vợ chồng ông bà sống hiền lành, thường xuyên làm việc thiện và giúp đỡ người khác, hễ thấy đền chùa nào hư hại đều phát tâm trùng tu, sửa chữa. Cảm động trước tấm lòng nhân nghĩa của họ, nhà trời sai thiên sứ xuống đầu thai. Mãi đến khi bà Cuông ngoài 60 tuổi mới mang thai, kéo dài đến tháng thứ 11 thì sinh ra một cậu bé khôi ngô. Suốt ba ngày ba đêm trong nhà tỏa sáng hào quang, vì vậy ông bà đặt tên con là Tống Trân.

Khi Tống Trân tròn ba tuổi, cha cậu mắc trọng bệnh qua đời khiến gia cảnh dần sa sút. Cậu bé và mẹ phải lang thang đi xin ăn khắp nơi. Trong một lần đến vùng Sơn Tây, hai mẹ con ghé xin ăn ở nhà một gia đình trưởng giả giàu có nhưng keo kiệt, độc ác. Gặp hai mẹ con ăn xin, hắn liền đuổi đi và không ngừng mắng chửi thậm tệ.

Người con gái của trưởng giả – Cúc Hoa – lại là người lương thiện, đầy lòng thương người. Thấy cảnh khổ cực của hai mẹ con, nàng lén đem cơm cho họ. Hành động này bị cha nàng phát hiện và tức giận đuổi Cúc Hoa ra khỏi nhà, từ mặt con gái. Vì vậy, mẹ con Tống Trân đành đưa Cúc Hoa đi cùng và trở về quê làm ăn.

Trong hoàn cảnh khó khăn, Cúc Hoa vừa chăm sóc mẹ Tống Trân, vừa nuôi tằm dệt lụa để nuôi Tống Trân học hành. Nhờ trí tuệ thông minh và nỗ lực, đến năm Quý Sửu (563) Tống Trân đỗ Trạng Nguyên và được vua ngợi khen: “Quốc sĩ tài hoa của đất nước chỉ có Tống Trân là không ai sánh kịp”. Sau khi vinh quy bái tổ, Tống Trân kết duyên cùng Cúc Hoa.

Ba tháng sau, Tống Trân nhận lệnh vua đi sứ phương Bắc trong 10 năm. Trong hành trình này, vua Bắc quốc nhiều lần thử tài Tống Trân nhưng ông đều ứng đối tài tình, được khen là nhân tài bậc nhất trong 18 nước chư hầu và được phong danh hiệu Lưỡng Quốc Trạng Nguyên. Vua Bắc quốc muốn gả con gái cho ông nhưng Tống Trân từ chối.

Vì bị từ chối, vua phương Bắc giam Tống Trân vào chùa Linh Long trong 100 ngày, không cho ăn uống, cấm tiếp xúc với bên ngoài. Trong thời gian bị giam cầm, Tống Trân phát hiện tượng Phật làm bằng chè lam có thể ăn được. Sau 100 ngày, vua Bắc quốc thấy ông vẫn khỏe mạnh, không khỏi kinh ngạc trước tài trí và khả năng của Tống Trân.

Tượng thờ Tống Trân

Tượng thờ Tống Trân

Trạng Nguyên Tống Trân và 2 người vợ

Mười năm đi sứ phương Bắc, dù không có tin tức gì từ Tống Trân nhưng Cúc Hoa vẫn ngày đêm mong ngóng, chăm sóc mẹ chồng chu đáo và giữ trọn tình thủy chung. Một lòng chờ đợi chồng, nàng lại bị cha ép gả cho con nhà giàu.

Nghe tin, Tống Trân trở về và cải trang thành người hành khất để dò xét. Thấy Cúc Hoa vẫn kiên nhẫn đợi chồng, Tống Trân vô cùng cảm động và quyết định đoàn tụ cùng nàng. Nhà vua cảm động trước tình nghĩa của họ và phong Cúc Hoa là Quận phu nhân.

Sau khi Tống Trân trở về, công chúa Bắc quốc vì thương nhớ chàng nên xin vua cha cho sang đất Việt tìm gặp. Vua Bắc quốc thương con nên đồng ý và cử đoàn tùy tùng hộ tống nàng. Trên đường đến phương Nam, không may đoàn gặp bão lớn, công chúa bị dạt vào bờ. Sau nhiều ngày lưu lạc, nàng vô tình gặp lại Tống Trân khi chàng đang đi săn trong rừng.

Tống Trân đưa công chúa về nhà, kể lại mọi chuyện cho Cúc Hoa nghe. Cảm động trước tình cảm của công chúa dành cho chồng mình, Cúc Hoa với tấm lòng bao dung đã vui vẻ giữ công chúa ở lại và đồng ý để Tống Trân lấy công chúa làm vợ thứ hai. Từ đó, ba người sống hòa thuận, hạnh phúc bên nhau.

Sau này, Tống Trân trở thành quan “Phụ chính đại thần”. Khi ngoài 60 tuổi, ông xin nghỉ hưu trở về quê mở trường dạy học cho người dân. Ông dạy miễn phí và hỗ trợ gạo tiền cho những người nghèo khó. Năm năm sau ông qua đời, vua thương tiếc phong ông là “Thượng đẳng phúc thần” và sau này lại gia phong thêm “Thượng đẳng tối linh phụ quốc thượng tể đẩu Nam song toán Tống đại vương” đồng thời ra lệnh xây đền thờ ông.

Người dân lập đền Tống Trân để tưởng nhớ vị Lưỡng Quốc Trạng Nguyên và người vợ hiền Cúc Hoa. Hằng năm vào tháng 4 âm lịch, lễ hội tưởng niệm diễn ra quanh cụm đền Tống Trân (thôn An Cầu – xã Tống Trân) và đền Cúc Hoa (thôn Phù Oanh – xã Minh Tiến – huyện Phù Cừ).

Đền Tống Trân, tương truyền xây trên nền nhà của ông từ thời Lý, có tên tự “Tiên căn linh từ”, tên nôm là đền Thượng hay đền Quan Trạng. Năm 1991, đền được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia.

Đền thờ Tống Trân

Đền thờ Tống Trân ngày nay

Qua thời gian, đền trải qua nhiều lần trùng tu, cổng đền có chữ Hán “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên từ môn”. Giữa sân là táp môn hình cuốn thư, trước sân là “ao mắt rồng” quanh năm trong xanh, bao quanh là hồ trồng sen tỏa hương thơm ngát.

Kiến trúc đền gồm 5 gian tiền tế, 3 gian trung từ và 1 gian hậu cung, lưu giữ nhiều hiện vật quý như tượng Tống Trân, câu đối, đại tự, bát hương, thần tích và 7 đạo sắc phong. Ngoài khu thờ chính còn có đền Mẫu thờ vọng nàng Cúc Hoa, tạo nên không gian tâm linh thành kính và cổ kính đậm chất làng quê Bắc Bộ.

Trong lễ hội, dân làng và du khách được hòa mình vào các hoạt động văn hóa như hát quan họ, chèo,… Đây là nét đẹp văn hóa góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc và truyền cảm hứng học hành cho các thế hệ mai sau.

Tống Trân có phải là nhân vật hư cấu?

Tống Trân là một nhân vật hư cấu do người đời sau sáng tạo. Câu chuyện Tống Trân – Cúc Hoa, một tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng trong dân gian ngợi ca tài đức, tình yêu và sự thủy chung của Tống Trân và Cúc Hoa. Tác phẩm này sau được Giáo sư Hà Văn Cầu, nguyên Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam dàn dựng thành vở chèo nổi tiếng cùng tên.

Vậy Tống Trân và Cúc Hoa là nhân vật lịch sử hay chỉ là một huyền tích? Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Hồ Nam, không có dòng sử liệu nào trong lịch sử khoa cử Việt Nam ghi chép về một Trạng Nguyên tên Tống Trân. Điều này cho thấy Tống Trân là nhân vật do dân gian sáng tạo, phản ánh niềm tin và khát vọng của nhân dân vào sự thành đạt.

Dù là nhân vật hư cấu, từ lâu Tống Trân vẫn được người dân địa phương tin là có thật với tiểu sử rõ ràng: quê ở xã An Đô – huyện Phù Dung, có cha là Tống Thiệu Công và mẹ là Đào Thị Cuông. Tống Trân sống vào thời Tiền Lý, làm quan dưới thời Lý Nam Đế và sau theo Triệu Quang Phục.

Nhà nghiên cứu Hồ Nam cho biết, khoa thi đầu tiên của Việt Nam được tổ chức vào năm 1075 dưới triều vua Lý Nhân Tông, nên Tống Trân thực chất chỉ là một biểu tượng về ước mơ thành công của người dân lao động. Dù chỉ là truyền thuyết hay văn học dân gian, câu chuyện vẫn phản ánh sự đấu tranh chống lại những thế lực tàn ác cản trở tình yêu.

Huyền tích Tống Trân Cúc Hoa còn ca ngợi lòng thủy chung, ý chí đấu tranh vì hạnh phúc và tình yêu, phản ánh tinh thần của người Việt truyền thống, đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ với nét đẹp tâm hồn độc đáo và sâu sắc.

Câu chuyện kỳ lạ về Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Tống Trân vượt xa một huyền tích, trở thành di sản văn hóa và tinh thần của người Việt. Những nét đẹp về tài năng, lòng kiên trung và tình nghĩa vợ chồng của Tống Trân – Cúc Hoa không chỉ làm phong phú văn học dân gian mà còn là nguồn cảm hứng lớn về giá trị nhân cách và đức hy sinh, trường tồn qua thời gian.

Nguyễn Đăng Đạo – Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Tài Đức Của Việt Nam