Sự kiện Trần Duệ Tông tử trận ở Đồ Bàn và bài học chiến lược

Sự kiện Trần Duệ Tông tử trận ở Đồ Bàn đánh dấu một trong những trang sử bi hùng của triều đại nhà Trần. Trận đánh không chỉ cho thấy quyết tâm của vị vua trẻ trong việc bảo vệ lãnh thổ mà còn để lại những bài học về chiến lược và cách dùng binh. Hãy cùng khám phá chi tiết về sự kiện này và những ảnh hưởng mà nó để lại cho Đại Việt.

Giới thiệu vua Trần Duệ Tông

Vua Trần Duệ Tông, tên húy là Kính, là con trai thứ 11 của Vua Minh Tông và là em của Vua Nghệ Tông. Mẹ ông là Đôn Từ hoàng thái phi. Ông sinh vào ngày 2 tháng 6 năm Khai Hựu thứ 9 (tức 30/06/1337).

Tranh minh hoa chân dung vua Trần Duệ Tông

Chân dung vua Trần Duệ Tông

Khi Vua Nghệ Tông gặp khó khăn và phải lánh nạn, chính Trần Duệ Tông đã dốc sức trong việc tập hợp quân đội và khí giới. Do đó, Vua Nghệ Tông đã quyết định nhường ngôi lại cho ông. Trần Duệ Tông trị vì được 4 năm và qua đời khi 41 tuổi.

Tháng Giêng năm Long Khánh thứ nhất (từ 24/01 đến 22/02/1373, Minh Hồng Vũ thứ 6), ông đã tôn Nghệ Tông làm Quang Hoa Anh Triết Thái Thượng Hoàng đế và truy phong Thục Đức Hoàng hậu làm Thuận Từ Hoàng Thái hậu.

Khi Nghệ Tông mới lên ngôi, Nguyên Phi của ông là Huệ Ý Phu nhân mất ở phủ Kiến Xương (Thái Bình) và được truy phong thành Thục Đức Hoàng hậu. Khi Trần Duệ Tông lên ngôi, bà lại được truy tôn làm Hoàng Thái hậu.

Trước đó, triều đình nhà Minh đã chỉ trích việc Dương Nhật Lễ qua đời và Nghệ Tông tự ý lên ngôi mà không thông báo. Nhà Minh đã ra lệnh ngừng việc trao đổi và từ chối nhận cống vật từ Đại Việt. Đến nay, sự việc đã tạm dàn xếp ổn thỏa và Minh Thái Tổ cho phép vua Nghệ Tông dùng lại ấn cũ. Tuy nhiên, sự kiện Vua Duệ Tông lên ngôi vẫn chưa được báo cho nhà Minh biết.

Sự kiện vua Trần Duệ Tông tử trận ở Đồ Bàn

Tháng Giêng, năm Hồng Vũ thứ 6 (24/01 đến 22/02/1373), Trần Thúc Minh (tức Trần Nghệ Tông) của nước An Nam đã cử Đàm Ứng Ngang cùng các quan đến triều Minh để tạ tội, dâng cống vật và xin phong tước. Đàm Ứng Ngang trình bày rằng Vua trước (Nhật Kiên) đã qua đời do bệnh tật, Thúc Minh thì tránh tiếng, ở ẩn bên ngoài, sau đó được dân lập lên ngôi. Thiên tử phán rằng:

Nay Nhật Kiên đã mất, người dân An Nam hãy lo việc tang lễ. Thúc Minh tạm thời sử dụng ấn của Vua trước để trông coi công việc, giữ yên lãnh thổ, ổn định dân chúng, sau đó sẽ xét. Lệnh Trung Thư truyền Hành tỉnh Quảng Tây thông báo rõ ý này cho nước An Nam. Ban thưởng cho Đàm Ứng Ngang và tùy tùng những vật phẩm như lụa và vải mùa hè trước khi họ về nước.

Tháng 2, triều đình nhà Trần thiết lập sổ sách quan lại văn võ. Cùng năm, Hoàng đế lập phi họ Lê làm Hoàng hậu. Bà vốn là em họ của Hồ Quý Ly, trước kia được phong làm Hiển Trinh Thần phi, nay được phong Gia Từ Hoàng hậu.

Tháng 8, nhà vua bổ sung lực lượng quân đội, tu sửa thuyền chiến. Do người Chiêm Thành thường xuyên xâm lấn, vua đã có ý định tự mình chỉ huy quân đội để đối phó. Vua ra lệnh cho quân dân quyên góp thóc lúa và phong phẩm tước cho những người đóng góp nhiều.

Trong cùng tháng 8, Sứ giả của Chiêm Thành đến triều Minh báo cáo chiến công Chế Bồng Nga đã đánh bại bọn cướp biển Trung Quốc, thu được nhiều chiến lợi phẩm. Minh Thái Tổ đã tỏ ra hài lòng và ban thưởng hậu hĩnh:

Ngày 29 tháng 8 năm Hồng Vũ thứ 6 (tức ngày 16/09/1373), Vua Chiêm Thành là Ha Đáp Ha Giả (Chế Bồng Nga) cử sứ thần Dương Bảo Ma Ha và Bát Đích Duyệt Văn Đán đến dâng biểu, cống nạp vật phẩm. Họ báo cáo rằng bọn cướp biển do Trương Nhữ Hậu và Lâm Phúc cầm đầu đã bị đánh bại. Nhữ Hậu chết đuối và quân Chiêm Thành thu giữ 20 chiếc thuyền, 7 vạn cân tô mộc cùng tên giặc Ngô Đệ Tứ để dâng lên triều đình. Thiên tử hài lòng, ban thưởng cho Quốc vương Chiêm Thành 40 tấm lụa là và lụa văn ỷ cùng nhiều vật phẩm cho các sứ thần.”

Ngày 12 tháng 11 năm Hồng Vũ thứ 6 (26/11/1373), Chiêm Thành gửi sứ đến triều Minh báo tin chiến thắng quân An Nam: “‘Nước An Nam xâm phạm, nhưng nhờ sự phù trợ của thiên triều, Chiêm Thành đã đẩy lùi kẻ địch tại biên giới. Nay xin kính báo tin chiến thắng.’

Thiên tử khuyên các quan tại Trung Thư Tỉnh rằng: ‘Các nước hải ngoại cách núi sông xa xôi, thường tự lo phòng thủ. Năm trước An Nam báo cáo Chiêm Thành xâm phạm, nay Chiêm Thành lại báo An Nam quấy nhiễu biên giới. Cả hai đều thần phục triều đình, chưa rõ bên nào đúng sai. Nay lệnh cho hai bên bãi binh, giữ yên dân, không được xâm phạm lẫn nhau.’ Sau đó, nhà Minh ban cho Quốc vương Chiêm Thành và các sứ thần lụa văn ỷ trước khi họ về nước.”

Cuối năm Hồng Vũ thứ 6, sứ giả nhà Minh đi đến Miến Điện qua nước An Nam nhưng bị trở ngại do quân Chiêm Thành đang đánh phá, nên phải trở về:

“Ngày 18 tháng 11 nhuần năm Hồng Vũ thứ 6 (01/01/1374), sứ giả Điền Nghiễm trên đường đi Miến Điện đã phải quay lại. Miến Điện nằm ở tây nam Vân Nam, giáp với Bát Bách và Chiêm Thành. Thời Nguyên, nước này đã thần phục triều đình. Nghe tin nước này từng nạp cống, Minh Thái Tổ cử Điền Nghiễm, Trình Đẩu Nam, Trương Vỉ, Tiền Cửu Cung đi sứ. Tuy nhiên, khi họ đến An Nam, gặp lúc Chiêm Thành xâm lược, đường bị chặn nên không thể tiếp tục. Minh Thái Tổ triệu hồi, nhưng chỉ có Điền Nghiễm về được, còn những người khác tử nạn trên đường.”

Tháng 2, năm Long Khánh thứ 2 (14/03 – 12/04/1374 năm Hồng Vũ thứ 7), triều đình mở kỳ thi tiến sĩ đầu tiên. Trước kia, thi Thái học sinh chỉ tổ chức 7 năm một lần, số đậu hạn chế. Đến đây, khoa tiến sĩ được chính thức lập, Đào Sư Tích đỗ Trạng Nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ Bảng nhỡn, Trần Đình Thâm đỗ Thám hoa và La Tu đỗ Hoàng giáp. Tổng cộng có 50 tiến sĩ được đãi yến và ban thưởng phẩm hàm.

Tháng 3, triều đình ra lệnh cho dân Thanh – Nghệ đào sông đến cửa biển Hà Hoa (huyện Kỳ La – Hà Tĩnh).

Đáp lại chiếu thư của Minh Thái Tổ về việc dùng lại ấn vua cũ, Nghệ Tông gửi sứ sang Minh triều để tạ ơn và thông báo việc nhường ngôi cho vua Duệ Tông.

Tháng 3 năm Hồng Vũ thứ 7 (13/04 – 11/05/1374), Trần Thúc Minh (Trần Nghệ Tông) của nước An Nam đã nhận được chiếu thư từ triều Minh cho phép dùng ấn của Vua trước để điều hành việc nước. Ông đã cử Chánh Đại phu Nguyễn Thời Trung đến dâng biểu tạ ơn và dâng cống vật. Đồng thời, Trần Thúc Minh cũng xin phép nhường ngôi cho em mình là Trần Đoan do tuổi già. Đề nghị này đã được chấp thuận. (Nguồn: Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, tập 1, trang 148).

Vua Duệ Tông sau đó cũng gửi một phái đoàn sang triều Minh để bày tỏ lòng biết ơn:

Ngày 29 tháng 5 năm Hồng Vũ thứ 7 (09/07/1374), Trần Đoan (Vua Duệ Tông) đã cử quan là Lê Tất Tiên dâng biểu tạ ơn và nhận lụa là, vải vóc từ triều Minh. (Nguồn: Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, tập 1, trang 149).

Vào tháng 8, triều đình bổ sung thêm quân hiệu. Trước đây, quân Túc vệ chỉ gồm các quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần. Tại thời điểm này, các quân hiệu Uy Tiệp, Bảo Tiệp, Long Dực, Thần Dực và Điện Hậu được thành lập, tuyển mộ dân đinh khỏe mạnh vào phục vụ và xăm các ký hiệu khác nhau trên trán để phân biệt.

Triều đình Minh tiếp tục tỏ lòng ân sủng với Chiêm Thành sau khi Chiêm đánh bại giặc biển:

Ngày 4 tháng 8 năm Hồng Vũ thứ 7 (11/09/1374), Vua Minh lệnh Trung Thư Tỉnh ban tặng Quốc vương Chiêm Thành 24 tấm văn ỷ, lụa là và rượu Thượng Tôn như phần thưởng thêm. (Nguồn: Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, tập 1, trang 149).

Vua Duệ Tông cũng hạ chiếu lệnh cho quân dân giữ phong tục nước mình, tránh bắt chước trang phục và phong tục của người phương Bắc, Chiêm hay Lào.

Tháng 10, Vua Duệ Tông bổ nhiệm Trần Thúc Ngạn, con trai của Thượng hoàng, làm Tư đồ trấn Thái Nguyên; Tư đồ Nguyễn Đán giữ việc quân tại Quảng Oai.

Tháng Giêng năm Long Khánh thứ 3 (01/02 – 02/03/1375), Lê Quý Ly được giao vai trò tham mưu quân sự, đồng thời tuyển chọn người trong tôn thất và các quan viên am tường võ nghệ làm tướng lĩnh.

Triều đình cũng tái tổ chức các lộ tại Hoan Châu, Diễn Châu và Lâm Bình. Hoan Châu đổi thành lộ Nhật Nam và các lộ Nghệ An Nam, Bắc, Trung. Diễn Châu vẫn giữ tên cũ, trong khi phủ Lâm Bình đổi thành phủ Tân Bình (Quảng Bình).

Tháng 6, nhà Minh quy định An Nam phải triều cống mỗi 3 năm một lần:

Ngày 6 tháng 6 năm Hồng Vũ thứ 8 (04/07/1375), Trần Đoan (Duệ Tông) nước An Nam cử Nguyễn Nhược Kim đến triều Minh xin biết kỳ hạn triều cống. Thiên tử quy định các nước như An Nam, Cao Ly và Chiêm Thành triều cống mỗi 3 năm một lần. (Nguồn: Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, tập 1, trang 151).

Tháng 8, chuẩn bị cho chiến dịch với Chiêm Thành, Vua Duệ Tông ra lệnh tuyển lính và tiếp tế lương thực từ Thanh Hóa và Nghệ An.

Tháng 10, Vua Minh tiếp sứ giả Chiêm Thành đến cống và ban thưởng Quốc vương Chiêm Thành Chế Bồng Nga y phục kim tuyến:

Ngày 11 tháng 10 năm Hồng Vũ thứ 8 (04/11/1375), Quốc vương Chiêm Thành cử Bảo Khuê Trại Tây Na Bát Đích dâng sản vật, được Vua Minh ban tặng y phục kim tuyến. (Nguồn: Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, tập 1, trang 151).

Tháng 4 năm Long Khánh thứ 4 (19/04 – 18/05/1376), Vua Duệ Tông ban lệnh về lễ hội Đồng Cổ, quy định chế độ thuyền, xe, kiệu, tàn lọng, trang phục và nghi trượng.

Tháng 5, quân Chiêm Thành tấn công Hóa Châu.

Ngày 1 tháng 5 năm Hồng Vũ thứ 9 (19/05/1376), Cống sứ nước ta đến triều Minh trước kỳ hạn, Minh Thái Tổ ban chỉ nhắc nhở triều cống đúng chu kỳ 3 năm một lần:

Không nên triều cống quá thường xuyên, kỳ hạn 3 năm là đủ, số sứ thần hạn chế từ 3 đến 5 người, cống vật không cần quá hậu.” (Nguồn: Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, tập 1, trang 153).

Tháng 10, Vua Duệ Tông duyệt binh ở sông Bạch Hạc (Sơn Tây) chuẩn bị cho chiến dịch đánh Chiêm Thành. Trước ý định thân chinh của vua, một số quan viên như Lê Tích và Trương Đỗ đã dâng sớ can gián, khuyên vua không nên trực tiếp cầm quân, nhưng vua không nghe.

Trần Duệ tông và trận đánh với quân Chiêm Thành

Trần Duệ tông và trận đánh với quân Chiêm Thành

Trước đó, Đỗ Tử Bình được cử đến trấn giữ Hóa Châu; Chế Bồng Nga, vua Chiêm Thành, đã dâng 10 mâm vàng cho triều đình. Tuy nhiên, Tử Bình giữ lại và nói dối rằng Bồng Nga ngạo mạn và bất kính, nên nhà vua quyết định thân chinh. Nhà vua thống lĩnh 12 vạn quân, xuất phát từ kinh đô, lệnh cho Lê Quý Ly đốc thúc dân ở Nghệ An, Tân Bình, Thuận Châu và Hóa Châu vận chuyển lương thực cho quân. Đến cửa biển Di Luân (huyện Bình Chánh, Quảng Bình), nhà vua cho quân vượt biển, còn mình dẫn bộ binh tiến ven bờ. Đến cửa biển Nhật Lệ (huyện Phong Lộc, Quảng Bình), nhà vua đóng trại hơn một tháng để rèn luyện quân.” (Nguồn: Cương Mục – Chính Biên – Quyển 10)

Tháng Giêng, năm Long Khánh thứ 5 (09/02 – 09/03/1377): Vua tiến quân vào Đồ Bàn, bị phục kích và tử trận. Các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, hành khiển Phạm Huyền Linh đều hy sinh, còn Ngự câu vương Úc thì đầu hàng Chiêm Thành.

Quan quân tiến đến cảng Thị Nại, rồi di chuyển đến Cầu Đá, đóng lại tại động Ỷ Mang. Bồng Nga dựng hàng rào tre gỗ ở ngoài thành Đồ Bàn và cử Mục Bà Ma ra trá hàng, nói rằng Bồng Nga đã chạy trốn, thành bỏ ngỏ. Tin lời, nhà vua vội vã tiến quân. Đại tướng Đỗ Lễ can gián, đề nghị kiểm tra tình hình trước, nhưng vua bác bỏ, cho rằng đây là cơ hội trời cho, việc quân phải nhanh chóng. Quân tiến như xâu cá, giặc thừa cơ tập kích, quân ta tan vỡ. Vua bị vây hãm và hy sinh. Ngự câu vương Úc đầu hàng giặc và được gả con gái. Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân nhưng không cứu viện, còn Lê Quý Ly hay tin liền rút về. Ngày ấy, kinh đô bỗng tối sầm, chợ búa phải đốt đèn. Thượng hoàng sai bắt Đỗ Tử Bình, người dân đua nhau ném đá vào xe tù của hắn. Tử Bình bị xử phạt nhưng được miễn tử hình, chỉ bị đày làm lính.(Nguồn: Cương Mục – Chính Biên – Quyển 10)

Trong Minh Thực Lục, việc Vua Duệ Tông tử trận được ghi nhận:

Ngày 28 tháng Giêng năm Hồng Vũ thứ 10 (08/03/1377), Trần Đoan (Vua Trần Duệ Tông) nước An Nam giao tranh với Chiêm Thành và tử trận.” (Nguồn: Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, tập 1, trang 153)

Sau khi vua tử trận, Thượng hoàng Nghệ Tông lập Kiến Đức đại vương Hiện, con trưởng, lên ngôi, xưng là Giản Hoàng, với tôn hiệu Khâm Minh nhân hiếu hoàng đế, tức Đế Hiện.

Tượng vua Trần Duệ Tông

Tượng vua Trần Duệ Tông

Sự hy sinh của Trần Duệ Tông tại Đồ Bàn đã trở thành bài học sâu sắc trong lịch sử Đại Việt, nhắc nhở thế hệ sau về tầm quan trọng của chiến lược, sức mạnh đoàn kết và sự tỉnh táo trong đối mặt với kẻ thù. Sự kiện này không chỉ là niềm tự hào mà còn là di sản quý báu của triều đại nhà Trần.

Mạc Đăng Dung và thời kỳ tự chủ trong lịch sử Việt Nam