Hoàng Văn Thụ: Người chiến sĩ cộng sản kiên trung bất khuất
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, Hoàng Văn Thụ đã trở thành một chiến sĩ cộng sản kiên trung, người đã cống hiến trọn đời mình cho Đảng và Tổ quốc. Những đóng góp to lớn của ông trong việc xây dựng phong trào cách mạng, tổ chức các cơ sở quần chúng và sự hi sinh bất khuất trước kẻ thù đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho các thế hệ sau, đưa ông trở thành một tấm gương sáng về lòng yêu nước và tinh thần cách mạng.
Hoàng Văn Thụ là ai?
Năm 1928-1929 khi hoạt động tại Long Châu và Nam Ninh (Quảng Tây – Trung Quốc), đồng chí Hoàng Văn Thụ làm thợ cơ khí tại “Xưởng cơ khí Nam Hưng” và sau đó tại cơ sở công binh xưởng Quốc dân Đảng ở Long Châu. Tại đây, đồng chí đã xây dựng được nhiều cơ sở bí mật, gồm trạm liên lạc tại nhà ông Nông Nhân Bảo ở phố Bát Bảo, thị trấn Long Châu, tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ cách mạng Việt Nam hoạt động trong khu vực Long Châu – Nam Ninh.
Ngày 03/02/1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng chí Hoàng Văn Thụ cùng Chi bộ Hải ngoại Long Châu (Trung Quốc) chỉ đạo phong trào cách mạng ở vùng biên giới Việt – Trung, phối hợp với các đồng chí như Hoàng Đình Giong, Lương Văn Tri và Hoàng Hồng Việt, do đồng chí Hoàng Đình Giong làm Bí thư. Hoàng Văn Thụ được phân công phụ trách phát triển phong trào cách mạng tại Lạng Sơn.
Giữa năm 1930, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã thành lập được ba tổ chức quần chúng trung kiên tại Lũng Nghị, mở rộng hoạt động tới các xóm Khưa Đa, Ma Mèo và Tà Lài thuộc xã Tân Yên, châu Văn Uyên (nay là huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn). Tại hang “Áng Cúm” trên dãy núi Khưa Đa, Ma Mèo, đồng chí đã tổ chức in tài liệu tuyên truyền, giác ngộ quần chúng yêu nước từ đó khơi dậy lòng nhiệt huyết cách mạng trong nhân dân.
Sau cao trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh (1930 – 1931), đồng chí Hoàng Văn Thụ tham gia lớp bồi dưỡng lý luận cách mạng tại Long Châu – Trung Quốc rồi được giao nhiệm vụ chỉ đạo mở rộng phong trào cách mạng tại Lạng Sơn.
Từ cuối năm 1932 đến đầu năm 1933, đồng chí tích cực hoạt động tại các cơ sở quần chúng trung kiên ở Khưa Lếch (Trung Quốc) và các xã Khưa Đa, Ma Mèo, Tài Lài thuộc Văn Uyên – Lạng Sơn tổ chức rải truyền đơn gây hoang mang cho thực dân Pháp. Đồng chí cũng chỉ đạo xây dựng các cơ sở trung kiên tại các khu vực này, tạo đà cho phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ ở nhiều nơi.
Giữa năm 1933, đồng chí đến xã Thuỵ Hùng (Văn Uyên) tổ chức kết nạp đảng viên và thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên tại Lạng Sơn, đồng thời làm Bí thư Chi bộ. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Hoàng Văn Thụ, đến cuối năm 1933 phong trào cách mạng đã phát triển rộng khắp ở Văn Uyên.
Từ cuối năm 1934 đến đầu năm 1935, dù thực dân Pháp gia tăng đàn áp khốc liệt các chiến sĩ cộng sản và quần chúng trung kiên, phong trào cách mạng ở Văn Uyên vẫn lan tỏa và thu hút được đông đảo quần chúng tại các vùng Thất Khê (nay là thị trấn Thất Khê – huyện Tràng Định), Bắc Sơn và các nơi khác.
Đồng chí đã trực tiếp tuyên truyền và giác ngộ quần chúng yêu nước từ Văn Uyên, Thất Khê, đưa nhiều người sang các lớp huấn luyện cách mạng bí mật tại Lũng Nghịu – Long Châu. Những lớp huấn luyện này đã góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ cho phong trào cách mạng ở Lạng Sơn và Cao Bằng.
Tại Văn Uyên (Lạng Sơn), đồng chí Hoàng Văn Thụ cũng chỉ đạo khôi phục và củng cố các trạm liên lạc bí mật tại các xã Tân Yên, Thụy Hùng và Phú Xá giúp bảo vệ an toàn cho các đại biểu tham dự Đại hội Đảng lần thứ nhất tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27/3 đến 31/03/1935.
Tháng 09/1936, đồng chí đến thôn Mỏ Tát, xã Vũ Lăng (Bắc Sơn) để kết nạp đảng viên và thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên tại Bắc Sơn.
Từ năm 1936-1939, Chi bộ Đảng ở Bắc Sơn và các tổ chức quần chúng trung kiên tại Thất Khê đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh, thu hút đông đảo quần chúng tham gia, gây sức ép mạnh mẽ lên chính quyền thực dân, phong kiến.
Đầu năm 1937, đồng chí Hoàng Văn Thụ đến Thông Nông (Cao Bằng) để vận động và tổ chức quần chúng, đồng thời trực tiếp chỉ đạo mở một số lớp huấn luyện cán bộ làm nòng cốt cho phong trào cách mạng tại Cao Bằng.
Sau đó, ngày 11/04/1938, đồng chí tiếp tục đến xã Phi Mỹ (nay là xã Tri Phương) – huyện Tràng Định – tỉnh Lạng Sơn để kết nạp đảng viên và thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên tại Tràng Định. Sự ra đời của các chi bộ tại Bắc Sơn và Tràng Định đã đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc của phong trào cách mạng tại Lạng Sơn. Đồng thời, thực hiện sự phân công của Xứ ủy Bắc Kỳ, từ giữa năm 1938 đồng chí Hoàng Văn Thụ cũng chỉ đạo củng cố phong trào cách mạng tại Thái Nguyên, Vĩnh Yên và Hải Dương.
Bài viết về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Hoàng Văn Thụ nhân dịp 40 năm hoạt động của Đảng (1930-1970) đăng Báo Nhân Dân, ngày 14-01-1970. Ảnh chụp lại
Đầu tháng 08/1938, sau gần 2 tháng củng cố phong trào đấu tranh của công nhân mỏ than Phấn Mễ (Thái Nguyên), đồng chí đến Thanh Hà (Hải Dương) để khôi phục phong trào cách mạng và nhóm “Thanh niên dân chủ”. Cuối tháng 08/1938, đồng chí đến làng Vũ Di, huyện Vĩnh Tường để kết nạp các quần chúng trung kiên vào Đảng và tuyên bố thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên tại Vĩnh Yên.
Tháng 09/1939, đồng chí Hoàng Văn Thụ đến mỏ than Hà Lầm (Quảng Ninh) để củng cố phong trào đấu tranh của công nhân. Với bí danh Vân, đồng chí đã vào vai một người thợ đùn máng than, trải qua những ngày tháng lao động cực nhọc cùng công nhân mỏ để chắp nối, củng cố cơ sở cách mạng và xây dựng niềm tin đấu tranh cho công nhân mỏ.
Cùng với việc chỉ đạo phong trào cách mạng tại nhiều tỉnh, đồng chí Hoàng Văn Thụ cũng dành thời gian chỉ đạo củng cố Thành ủy Hà Nội sau nhiều lần tan rã do sự đàn áp của thực dân Pháp. Đến cuối năm 1939, dưới sự chỉ đạo của đồng chí, Thành ủy Hà Nội dần được khôi phục, tạo điều kiện cho hoạt động của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ.
Hoàng Văn Thụ – Một nhà lãnh đạo tận tụy
Trong vai trò Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã đề xuất thành lập tờ báo “Giải phóng” làm cơ quan tuyên truyền của Xứ ủy và giữ vai trò chủ bút. Đồng chí thường xuyên viết các bài tuyên truyền chủ trương đấu tranh của Đảng và Xứ ủy với bí danh Lý. Trong bối cảnh thực dân Pháp đàn áp, đồng chí vẫn luôn gắn bó với cơ sở quần chúng cách mạng trung kiên, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng quần chúng.
Khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ (27/09/1940), đồng chí đã tổ chức họp với Ban Thường vụ Xứ ủy để đề ra chủ trương giữ vững Đội du kích Bắc Sơn, làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang cách mạng. Đồng chí cũng được giao nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, góp phần quan trọng cho phong trào cách mạng sau này.
Cuối tháng 12/1940, đồng chí Hoàng Văn Thụ được giao nhiệm vụ quan trọng đi Tĩnh Tây (Trung Quốc) gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để bàn về việc tổ chức lực lượng cách mạng trong và ngoài nước, đồng thời chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Sau khi nhận chỉ thị, đồng chí liên lạc với Tỉnh ủy Cao Bằng để tổ chức hội nghị này.
Tháng 02/1941, trên đường dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng), đồng chí đã làm việc với Ban chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn tại Khuổi Nọi, Vũ Lễ (Bắc Sơn) và thông báo chủ trương của Đảng về việc phát triển Đội du kích Bắc Sơn, làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang cách mạng. Sau hội nghị, đồng chí dự hội nghị Xứ ủy Bắc Kỳ tại làng Đông Lĩnh (Thanh Ba – Phú Thọ) và đưa ra nhiều ý kiến quan trọng về phát triển Đảng và đẩy mạnh phong trào quần chúng cách mạng.
Người chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất
Trong bối cảnh phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, ngày 25/08/1943, đồng chí Hoàng Văn Thụ bị mật thám Pháp bắt tại ngõ Nam Diệm (Hà Nội). Dù bị tra tấn tàn khốc, đồng chí vẫn kiên quyết bảo vệ Đảng và đồng chí, thể hiện tinh thần bất khuất của người chiến sĩ cộng sản.
Ngày 21/12/1943, thực dân Pháp đưa đồng chí ra “Toà án đại hình” với ý đồ làm lung lay tinh thần của các tù chính trị, nhưng đồng chí đã biến phiên tòa thành nơi tuyên truyền đường lối cách mạng. Trong giây phút cuối cùng, đồng chí vẫn kiên trung, kêu gọi đồng đội kiên trì đấu tranh vì lý tưởng cách mạng.
Với ý chí sắt đá và tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ cộng sản, trong những ngày cuối cùng trước khi lĩnh án tử, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã sáng tác những vần thơ tràn đầy dũng khí gửi gắm đến đồng bào và đồng chí:
“Việc nước xưa nay có bại thành
Miễn sao giữ trọn được thanh danh
Phục thù chí lớn không hề nản
Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành.
Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm
Chí còn theo dõi buổi tung hoành
Bạn hỡi xa gần hăng chiến đấu
Trước, sau xin giữ tấm lòng thành.”
Vào rạng sáng ngày 24/05/1944, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã hy sinh anh dũng tại trường bắn Tương Mai, Hà Nội. Đứng trước mặt kẻ thù, đồng chí đanh thép tuyên bố: “Trong cuộc đấu tranh sinh tử giữa chúng tôi, những người mất nước và các ông, những kẻ cướp nước, sự hy sinh của những người như tôi là lẽ dĩ nhiên. Chỉ biết rằng, cuối cùng chúng tôi sẽ chiến thắng.”
Đồng chí Hoàng Văn Thụ bị thực dân Pháp giải từ Nhà tù Hỏa Lò ra pháp trường ngày 24/05/1944
Trong giây phút vĩnh biệt, khí phách hiên ngang của đồng chí bùng lên mạnh mẽ qua lời hô:
Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!
Việt Nam độc lập muôn năm!
Mười lăm năm sau, vào tháng 05/1959, đồng chí Trường Chinh viết bài “Viếng mộ anh Hoàng Văn Thụ”, ca ngợi đồng chí là “Người cộng sản anh hùng – Đã cảm tử cho Đảng quyết sinh.”
Sự hy sinh của đồng chí Hoàng Văn Thụ là mất mát lớn lao trong lòng đồng bào, đồng chí. Tuổi trẻ và cuộc đời đấu tranh sôi nổi của người chiến sĩ cộng sản kiên trung ấy đã trở thành một bản hùng ca bất diệt, tiếp nối tinh thần cách mạng, khích lệ bao thế hệ người Việt trên con đường đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước.
Sự thật về lời tiên tri của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong sử Việt