Kháng chiến Mông Nguyên lần 1: Thăng trầm và khí phách Đại Việt
Năm 1258, vó ngựa Mông – Nguyên ào ạt kéo xuống phương Nam, mang theo cuồng vọng bá chủ thiên hạ. Nhưng nơi đất Việt, lòng dân quy tụ, tướng sĩ đồng tâm, một trận chiến đã làm chấn động cả thiên triều. Kháng chiến Mông Nguyên lần 1 tuy ngắn ngủi, song là cột mốc khai mở cho hào khí Đông A lẫy lừng muôn đời.
Thế nước trước giờ binh đao
Buổi đầu thế kỷ XIII, Đại Việt dưới triều Trần vừa trải qua buổi kiến quốc, bước vào thời kỳ ổn định và hưng thịnh. Trần Thái Tông trị vì, trong ngoài hòa mục, chính sự nghiêm minh, binh bị chỉnh tề. Triều đình chủ trương khoan thư sức dân, tích lũy thực lực, lấy an dân làm gốc, lấy văn trị làm nền, lấy võ công làm uy. Quốc gia tuy nhỏ, song chí lớn chẳng thua ai.
Tuy nhiên, nơi phương Bắc, mối họa lớn đang hình thành. Người Mông Cổ, vốn sinh trưởng nơi thảo nguyên lạnh giá, dưới sự thống lĩnh của Thiết Mộc Chân Thành Cát Tư Hãn và các đời hậu duệ, đã liên tiếp chinh phục Tây Hạ, Kim, rồi dòm ngó Trung Nguyên. Sau khi Mông Ca lên ngôi Đại hãn, đế quốc Mông Cổ vươn vó ngựa khắp Á – Âu, từng bước nuốt trọn phương Nam.
Năm 1257, đại quân Mông – Nguyên do tướng Ngột Lương Hợp Thai cầm đầu tiến công Đại Lý, chiếm cứ vùng Vân Nam, giáp giới Đại Việt. Chẳng bao lâu sau, sứ Mông tới kinh thành Thăng Long, mang chiếu thư đòi Đại Việt phải “thuần phục thiên triều”, nhường đường cho quân Nguyên đi đánh Chiêm Thành.
Bản đồ cục diện Đông Á năm 1257: Đại Việt, Mông Cổ, Nam Tống.
Triều đình Trần luận bàn cẩn trọng. Trước uy lực của một đế quốc từng khuynh đảo cả Á – Âu, vẫn giữ khí phách kiên cường. Trần Thái Tông và các bậc phụ lão triều đình đều một lòng: “Nam quốc sơn hà, vốn dĩ độc lập, há để quân Hồ lấn hiếp”. Thế nước tuy còn non trẻ, song lòng dân đã kết, khí phách đã thành. Quân đội được rèn luyện tinh nhuệ, các tướng lĩnh – đặc biệt là Trần Quốc Tuấn – đã nổi bật về tài cầm binh.
Giữa sóng gió chực chờ, triều Trần đã âm thầm dựng thế trận vững vàng. Binh pháp được luyện, kho lương tích trữ, địa đồ nắm vững, thám báo dọc biên cương. Mọi sự chuẩn bị đã sẵn sàng. Đại Việt tuy nhỏ, song chí chẳng chịu khuất, quyết không để vó ngựa phương Bắc giày xéo sơn hà.
Diễn biến cuộc kháng chiến Mông Nguyên lần 1
Mùa đông năm Đinh Tỵ (1257), quân Mông – Nguyên do Ngột Lương Hợp Thai thống lĩnh, dẫn đại binh vượt qua biên giới phía tây bắc, theo đường Vân Nam, tràn vào lãnh thổ Đại Việt. Bọn chúng đi đến đâu, gươm giáo tàn phá, xóm làng tiêu điều, gieo rắc lửa binh đao khắp cõi biên thùy.
Chiến binh Mông Cổ giáp trụ đầy đủ, cưỡi chiến mã, tay nắm cung tên.
Trước thế giặc như vũ bão, triều Trần lập tức triệu tập quần thần, tổ chức phòng thủ. Thái Tông thân chinh, các vương hầu như Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Hiệu đều cầm quân nghênh chiến. Bước đầu, vì chưa quen binh pháp của giặc Hồ, quân ta gặp nhiều khó khăn, nhiều trận buộc phải tạm lui, trong đó có trận giao chiến tại Bình Lệ Nguyên, quân ta thiệt hại đáng kể.
Ngày 17 tháng Chạp năm ấy, trước thế tiến công mạnh mẽ của địch, triều đình chủ động rút khỏi kinh thành Thăng Long, lui về Thiên Trường – Tức Mặc để bảo toàn lực lượng, đồng thời chỉnh đốn binh mã, chuẩn bị cho cuộc phản công. Sách lược “dĩ đoản chế trường”, “lấy nhu thắng cương” bắt đầu phát huy hiệu quả. Quân Trần không dàn trận chính diện, mà phân tán lực lượng, đánh du kích, quấy nhiễu hậu phương địch, cắt đường tiếp tế.
Trong lúc đó, quân Mông – Nguyên tiến vào Thăng Long nhưng không gặp được sự kháng cự như dự tính. Chúng chiếm được kinh thành trong hoang vắng, thiếu lương thảo, mệt mỏi vì thời tiết và địa hình bất lợi, lại bị tập kích liên tục ở các cửa ải và vùng ven. Giặc dần rơi vào thế lúng túng, binh sĩ hoang mang, lòng quân ly tán.
Ngày 29 tháng Chạp, đại quân Đại Việt tổ chức phản công quyết liệt ở Đông Bộ Đầu. Quân Trần chia ba đạo, giáp công cùng lúc khiến địch trở tay không kịp. Ngột Lương Hợp Thai bị trọng thương, quân giặc hoảng hốt tháo chạy, bỏ lại xác chết ngổn ngang. Đêm giao thừa, đất Thăng Long sạch bóng giặc Hồ.
Bản đồ kháng chiến Mông Nguyên lần 1 thời Trần, Đại Việt.
Sau hơn một tháng trời binh lửa, cuộc chiến tranh chống Mông Nguyên lần 1 kết thúc trong chiến thắng oanh liệt. Giặc phương Bắc thảm bại, Đại Việt giữ vững sơn hà. Từ đó, triều Trần càng củng cố thế nước, chỉnh đốn quân đội, tích lũy binh lương, lập kế lâu dài để đối phó với những đợt xâm lăng tiếp theo đang dần lộ bóng.
Những yếu tố làm nên chiến thắng
Cuộc kháng Mông – Nguyên lần thứ nhất tuy ngắn ngủi về thời gian nhưng lại hiển hách về khí phách. Sở dĩ Đại Việt có thể đánh lui đội binh xâm lược lừng danh thiên hạ, phần nhiều là nhờ vào sự kết hợp hài hòa giữa thiên thời, địa lợi và nhân hòa.
Trước tiên, phải kể đến sự lãnh đạo sáng suốt và quyết đoán của triều đình nhà Trần. Thái Tông hoàng đế tuy còn niên thiếu về triều đại, song khí độ vương giả, biết thời biết thế. Các vương hầu như Trần Thái Sư, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải đều là bậc kiêu hùng kiệt xuất, thao lược hơn người. Triều Trần tuy mới lập cơ nghiệp chưa lâu, nhưng lòng dân đã quy phục, triều chính yên định, trên dưới một lòng, khiến cho nội lực vững vàng, đủ sức kháng cự ngoại bang.
Thứ đến là sách lược dụng binh linh hoạt, lấy nhu thắng cương, lấy ít địch nhiều. Trước thế giặc mạnh như cuồng phong, triều đình chủ động bỏ Thăng Long, tránh chạm mũi giáo ngay từ đầu, giữ nguyên khí quốc gia, chờ thời mà phản công. Chiến thuật du kích, quấy phá hậu phương, đốt kho lương, cắt đường tiếp tế khiến quân Mông – Nguyên vốn quen chiến pháp thảo nguyên trở nên lúng túng giữa rừng núi Đại Việt.
Lại thêm lòng dân như núi Thái Sơn, như nước chảy mãi không cùng. Trăm họ tuy chịu gian khổ trong lửa binh đao, song vẫn một lòng theo nước, tiếp tế lương thảo, nuôi dưỡng nghĩa quân, giấu chở vua tôi. Lòng trung của dân, chí quyết tử của quân, là cội nguồn của đại thắng.
Không thể không nhắc đến địa thế hiểm yếu của sông núi Đại Việt, với rừng rậm chập chùng, sông sâu lắm ngã, khiến cho kẻ thù lạ nước lạ đường, càng tiến càng mỏi, càng ở lâu càng hao. Trời tháng Chạp lại rét buốt, quân Hồ vốn quen đất lạnh phương Bắc nhưng không hiểu khí hậu phương Nam, bệnh tật hoành hành, khiến nhuệ khí tiêu tan.
Sa đồ trận Quy Hóa 1257 – Hà Bổng đánh úp Nguyên binh.
Tổng hòa những yếu tố ấy, cộng thêm chí kiên cường bất khuất của cả triều lẫn dân, đã hun đúc nên một trận đại thắng, mở đầu cho bản anh hùng ca chống ngoại xâm lẫy lừng của dân tộc. Khí phách ấy, từ buổi đầu dựng nước đến muôn đời sau, mãi mãi lưu danh trong chính sử nước Nam.
Ý nghĩa lịch sử sâu xa
Trận kháng Mông Nguyên lần thứ nhất, tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng dư vang vọng mãi trong sử xanh nước Việt, là pho anh thư mở đầu cho chuỗi chiến công hiển hách thời Trần. Đó không chỉ là thắng lợi về mặt quân sự, mà là minh chứng hùng hồn cho khí phách dân tộc, cho chí bất khuất của một quốc gia tuy nhỏ về cương vực, nhưng lớn lao về hồn cốt.
Thắng lợi ấy đã đánh tan huyền thoại bất khả chiến bại của đoàn binh thiết kỵ phương Bắc, làm lung lay uy thế thiên triều từng vỗ ngực xưng bá khắp Âu Á. Một nước Đại Việt non trẻ, chỉ mới định nghiệp từ đầu thế kỷ, mà đã dám đứng thẳng trước vó ngựa giặc Hồ, lại còn đẩy lui chúng trong vòng một tháng, ấy là một kỳ tích khiến hậu thế ngưỡng vọng.
Về nội trị, trận thắng củng cố niềm tin của bá tính đối với triều Trần, kết tụ lòng dân, siết chặt tình quân – dân như keo sơn. Từ đó, quốc lực được nâng lên, lòng trung nghĩa được vun bồi, tạo nền móng vững chắc cho những thắng lợi lẫy lừng về sau trước làn sóng xâm lược kế tiếp.
Về ngoại giao, thắng trận khiến thiên triều phải dè dặt hơn trong mưu đồ nam tiến, buộc phải điều chỉnh sách lược đối với nước Việt, thừa nhận nơi đây là một thế lực không thể khinh suất. Đại Việt từ chỗ bị xem là phiên thuộc, đã hiển nhiên trở thành một thực thể chính trị có bản lĩnh và sức mạnh riêng biệt trong bản đồ Đông Á thời bấy giờ.
Sau rốt, ý nghĩa sâu xa nhất của thắng lợi ấy chính là sự khẳng định một chân lý ngàn đời: dân tộc Việt Nam, dù đối diện với cường địch hùng mạnh đến đâu, vẫn có thể đứng vững, đánh thắng, nếu trong tay có chính nghĩa, lòng dân và ý chí không khuất phục. Từ đó, tinh thần Đại Việt ngạo nghễ đã gieo mầm cho các thế hệ mai sau, làm rạng danh giống nòi nơi biên cương gấm vóc.