Chúa Tiên Nguyễn Hoàng: Tổ khai mở cơ đồ Đàng Trong
Giữa thời loạn lạc, Nguyễn Hoàng – vị Chúa khai sáng họ Nguyễn ở Đàng Trong – đã vượt khỏi nghi kỵ chốn quyền mưu, khéo léo dựng nên một miền Nam độc lập, ổn định và thịnh vượng. Ông không chỉ mở mang bờ cõi, trọng thương nghiệp, trị quốc an dân mà còn đặt nền móng vững chắc cho cơ nghiệp Nguyễn Phúc tộc suốt hai thế kỷ sau.
Trấn nhậm Thuận Quảng – Khởi dựng cơ đồ phương Nam
Sau khi thân phụ Nguyễn Kim bị hại, rồi anh cả Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát tử, Nguyễn Hoàng tự biết mình đang giữa vòng nghi kỵ chốn quyền thần. Ông giả vờ ngã bệnh, bí mật bàn mưu với Nguyễn Ư Dĩ, rồi sai người đến hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nghe lời phán: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Nguyễn Hoàng thấu hiểu, rằng phương Nam chính là nơi dung thân, lập nghiệp.
Năm 1558, nhờ chị gái là Nguyễn Thị Ngọc Bảo, ông khéo léo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn nhậm Thuận Hóa – vùng đất mới yên nhưng lòng người chưa thuận. Trịnh Kiểm vì muốn đẩy xa mối lo, liền thuận ý, tâu vua Lê giao Nguyễn Hoàng trọng trách. Vậy là từ một nhượng bộ chính trị, mầm mống chia cắt Nam – Bắc cũng từ đây manh nha.
Nguyễn Hoàng cùng đoàn thân tín, phần lớn xuất thân từ Thanh – Nghệ, vượt Hoành Sơn, theo đường biển vào cửa Việt Yên, rồi tiến đến Ái Tử (Triệu Phong, Quảng Trị) dựng dinh trấn thủ. Dưới tài dụng binh và đức độ trị dân của ông, đất Thuận Hóa nhanh chóng yên ổn, dân cư quy tụ, sản vật dồi dào, lòng người quy phục.
Nguyễn Hoàng vượt Hoành Sơn vào trấn nhậm Thuận Hóa.
Không dừng ở đó, Nguyễn Hoàng dần mở rộng ảnh hưởng tới Quảng Nam. Ông dời dinh về Trà Bát, củng cố phòng thủ ven biển, tổ chức lại hệ thống hành chính và chia trị hai xứ Thuận – Quảng rõ ràng, tạo thành một thể chế vững vàng giữa thời nhiễu nhương. Nhờ vậy, vùng đất từng là biên viễn hoang hóa trở thành căn cứ địa bền vững, là nền móng đầu tiên cho cơ nghiệp Nam triều về sau.
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng: Dựng trấn giữ Nam, phân sơn chia nước
Trải suốt hai thập niên trấn nhậm Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng từng bước gây dựng thế lực, củng cố lòng dân, mở mang bờ cõi, khiến đất phương Nam dần trở thành cứ địa vững vàng. Uy danh của ông vang khắp cõi, đến năm 1593, khi Trịnh Tùng huy động chư tướng ra Bắc phò vua Lê dẹp họ Mạc, Nguyễn Hoàng cũng thuận mệnh, đưa binh trợ chiến, lập nhiều chiến công hiển hách ở Sơn Nam, Hải Dương, Thái Nguyên, Sơn Tây. Ông được phong Thái úy, Đoan Quốc Công – vị thế chính danh giữa triều đình Lê – Trịnh.
Thế nhưng, vinh danh càng cao, dã tâm nghi kỵ của họ Trịnh càng lớn. Suốt tám năm ở lại Đông Đô, hai người con trai của ông tử trận, bản thân ông thì bị Trịnh Tùng tìm cách giữ lại không cho hồi Nam. Đến năm 1600, nhân có loạn ở cửa Đại An, Nguyễn Hoàng khéo léo viện cớ điều quân, rồi bất ngờ đưa toàn bộ bản bộ quân thuyền xuôi nam bằng đường biển, thẳng về Thuận Hóa. Từ ấy, ông tuyệt nhiên không hồi chầu, đặt dấu mốc cho cuộc phân chia Nam – Bắc triều kéo dài hơn hai thế kỷ.
Bản đồ Nam tiến dưới thời Chúa Nguyễn Hoàng.
Tuyệt giao với Đàng Ngoài, Nguyễn Hoàng lập thế phòng bị, mở rộng trấn sở. Ông cho dời dinh từ Ái Tử về Dinh Cát, lập Dinh Thanh Chiêm ở Quảng Nam, đặt con trai là Nguyễn Phúc Nguyên trấn thủ. Tới năm 1604, ông phân tách phủ Điện Bàn khỏi Triệu Phong, thành lập Dinh Quảng Nam – một trung tâm hành chính – quân sự – kinh tế trọng yếu của Đàng Trong.
Dưới sự điều hành của Nguyễn Hoàng, các phủ như Tư Nghĩa, Thăng Hoa, Hoài Nhơn lần lượt được đặt dưới quyền kiểm soát vững chắc, hình thành một trật tự quản lý thống nhất từ Quảng Trị đến miền nam Quảng Ngãi. Từ Dinh Thanh Chiêm, đường giao thương mở ra Hội An dần trở thành thương cảng quốc tế, vừa là mắt xích kinh tế, vừa là điểm tựa cho các đời quốc chúa tiếp nối.
Với trí lược sâu xa, ông không chỉ dựng trấn giữ Nam mà còn đặt nền tảng cho một thực thể chính trị – hành chính độc lập với phương Bắc. Từ đây, sơn hà phân đôi, Đàng Trong – Đàng Ngoài chia cõi, lịch sử bước sang một thời kỳ mới, nơi mà dấu ấn Nguyễn Hoàng trở thành cột mốc khai sinh của dòng chúa Nguyễn – tiền thân của triều đại sau cùng trong lịch sử quân chủ Việt Nam.
Khai cương mở cõi – Tấm lòng hướng về phương Nam
Sau khi đã dựng vững nền trấn ở Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng không dừng lại ở việc phòng thủ, mà sớm nuôi chí bành trướng, mở rộng biên thùy về phương Nam. Từ một vùng đất còn hoang vắng, hiểm trở, ông từng bước khẩn hoang, chiêu dân lập ấp, đặt nền cho công cuộc Nam tiến kéo dài suốt mấy thế kỷ về sau.
Năm 1578, khi quân Chiêm Thành lại dấy binh quấy phá biên thùy Hoa Anh, Nguyễn Hoàng sai tướng Lương Văn Chánh đem quân tiến đánh đến sông Đà Diễn, đánh chiếm thành An Nghiệp – một trong những kinh thành kiên cố bậc nhất của vương quốc Chăm Pa. Thắng lợi này không chỉ đẩy lui thế lực Chiêm Thành mà còn mở đường cho việc thiết lập thế lực Đại Việt trên vùng đất Phú Yên – Khánh Hòa sau này.
Tới năm 1597, Nguyễn Hoàng giao phó cho Lương Văn Chánh – lúc ấy là tri huyện Tuy Viễn – trọng trách dẫn hơn 4000 lưu dân vào vùng đất từ đèo Cù Mông đến đèo Cả. Đó là miền hoang địa, chưa từng có triều đình nào quản lý, nhưng dưới sự chiêu mộ của Chúa Tiên, dân chúng Thanh – Nghệ lũ lượt vào khai khẩn, lập nên các làng mạc ven sông Đà Diễn và sông Cái, đặt nền móng cho phủ Phú Yên sau này.
Bản đồ Phú Yên thời Chúa Nguyễn Hoàng mở cõi.
Đến năm 1611, khi quân Chiêm lại nổi lên, Nguyễn Hoàng sai tướng Văn Phong tiến đánh. Chiêm binh thất trận, vua Po Nit phải rút về phía Nam đèo Cả. Chúa Nguyễn nhân thế lập phủ Phú Yên, đặt hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao Lương Văn Chánh làm Tham tướng, Văn Phong làm Lưu thủ. Như thế, ranh giới cõi Nam của Đàng Trong đã vươn đến tận núi Thạch Bi – cực nam xứ Phú Yên ngày nay.
Dưới thời Nguyễn Hoàng, đất đai họ Nguyễn kiểm soát kéo dài suốt từ đèo Ngang, Hoành Sơn cho tới núi Đá Bia – diện tích hai xứ Thuận Quảng rộng khoảng 45.000 km². Sự mở rộng ấy không chỉ có ý nghĩa về địa lý, mà còn là biểu hiện rõ rệt của tư tưởng tự chủ, tư duy chiến lược mà Chúa Tiên đã ôm ấp từ buổi đầu dựng nghiệp.
Cũng từ vùng đất ven biển phía Nam, những gia tướng họ Vũ – vốn là người Chăm cải đạo, từng phò Nguyễn Kim – đã giúp Nguyễn Hoàng đặt chân đến cả vùng Bãi Cát Vàng ngoài khơi xa. Tuy là nơi hoang vắng, không người tranh chấp, nhưng sự chiếm giữ thầm lặng ấy là lời khẳng định chủ quyền sớm nhất của họ Nguyễn đối với lãnh hải phương Nam.
Sự nghiệp khai cương mở cõi của Chúa Tiên không chỉ mang dáng dấp của một nhà quân sự lỗi lạc, mà còn toát lên hình ảnh của một bậc minh chúa viễn kiến – người đã nhìn xa trông rộng, biết rằng muốn giữ vững cơ đồ, thì phải lấy phương Nam làm căn bản, mở đất để dưỡng dân, nuôi binh, dựng nên một thế lực trường tồn qua muôn đời.
Mở cửa ngoại thương, phục hưng Hội An
Bên cạnh công cuộc bình Chiêm mở cõi, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng còn thể hiện tầm nhìn vượt thời đại trong lĩnh vực thương mại, khi chủ trương khai thông hải thương, đưa Đàng Trong từng bước vươn ra giao lưu với thế giới bên ngoài. Trong bối cảnh các triều đại trước còn nặng tư tưởng “trọng nông ức thương”, việc ngài đặt trọng tâm phát triển ngoại thương đã đánh dấu một bước chuyển mình lớn lao cho vùng đất phương Nam.
Ngay từ khi ổn định hai xứ Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng đã cho thu mua các sản vật quý như tiêu Quảng Trị, yến sào, vây cá,… đem chở về phố Thanh Hà để trao đổi với thuyền buôn nước ngoài, đặc biệt là thương nhân Trung Hoa, Mã Cao. Hồ tiêu được định chuẩn theo tạ, bán giá cao cho khách phương Bắc, thu lợi lớn để nuôi quân, dưỡng dân, tích trữ cho quốc dụng lâu dài.
Không dừng ở đó, nhận thấy vị trí chiến lược của Hội An – nơi cửa biển thuận lợi cho tàu thuyền quốc tế, Chúa Tiên đã chủ trương khôi phục cảng thị này sau gần 150 năm suy tàn từ thời Trần – Hồ – Lê. Năm 1589, ngài cho lập Phố Nhật, mời thương nhân Nhật Bản đến buôn bán; đến năm 1608, lại cho mở Phố Khách, đón thương nhân từ Hoa lục, Mã Lai, Xiêm La,… Hội An từ đó dần trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất Đông Nam Á.
Nhằm thúc đẩy bang giao, Nguyễn Hoàng không ngần ngại gửi thư ngoại giao sang chính quyền Tokugawa của Nhật Bản. Trong những bức thư viết tay, lời lẽ của ngài vừa trang trọng, khiêm nhường, vừa thể hiện rõ thiện chí hòa hiếu lâu dài. Đặc biệt, Nguyễn Hoàng còn nhận một thương nhân Nhật là Hunamoto Yabeije (Di Thất Lang) làm nghĩa tử, đích thân gửi thư báo tin cùng lễ vật quý như kỳ nam, khổng tước, bạch quyên,… thể hiện tình giao hảo chân thành và sâu sắc.
Thư ngoại giao Nguyễn Cảnh Đoan gửi Nhật Bản năm 1591.
Những chính sách mở cửa ấy chẳng những đem về lợi ích kinh tế trước mắt mà còn củng cố vị thế chính trị – quân sự cho Đàng Trong. Trong bối cảnh Đàng Ngoài luôn tiềm ẩn hiểm họa, việc thúc đẩy hải thương chính là đường lối thông minh để bù đắp nguồn lực, củng cố thực lực và bảo vệ thế đứng độc lập của họ Nguyễn trên bản đồ Đại Việt.
Chúa Tiên không những biết trị dân, dụng binh, mà còn am tường đại thế. Việc phục hưng Hội An và mở cửa ngoại thương không chỉ là một quyết sách kinh tế, mà còn là minh chứng cho trí tuệ và nhãn quan chính trị sắc sảo của một bậc khai quốc.
Kết cục viên mãn – Người lập nền, nghiệp để muôn đời
Trải qua hơn nửa thế kỷ trấn thủ Thuận Quảng, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng không chỉ dẹp loạn an dân, khai sơn phá thạch mà còn đặt nền tảng vững chắc cho sự nghiệp Nam tiến hiển hách của hậu thế.
Đến năm Quý Tỵ (1613), khi tuổi cao sức yếu, biết đại sự đã thành, ngài cho vời Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên – người con trai thứ sáu – từ Quảng Nam về nối ngôi. Trước lúc lâm chung, Chúa để lại huấn từ như lời di ngôn kết tinh cả một đời trị quốc:
“Nếu Bắc tiến được thì tốt, còn bằng không, hãy giữ vững đất Thuận Quảng, mở mang bờ cõi về phương Nam. Đây là nơi anh hùng dụng võ. Phải yêu dân, rèn binh, xây nền nghiệp lớn.”
Câu nói ấy chẳng những là lời căn dặn cuối đời, mà còn là phương hướng chiến lược cho toàn thể dòng họ Nguyễn trong suốt hai thế kỷ sau. Tư tưởng ấy đã khơi dòng cho đại nghiệp mở mang cương thổ, đẩy biên giới Đại Việt tiến dần tới Hà Tiên – Hà Tiếp, thậm chí vươn cả ra hải đảo.
Tại xã Ái Tử – nơi ngài từng đặt bản doanh đầu tiên khi mới vào Nam, dân chúng đã lập miếu thờ, tôn kính ngài như bậc thánh tổ phương Nam. Dù lúc sinh thời chỉ mang tước “Đoan Quốc Công”, song lòng nhân ái, trí lược và công lao mở cõi khiến dân gian kính xưng là Chúa Tiên – vị tổ đầu tiên của chính thống Nam triều họ Nguyễn.
Ngài băng hà ở tuổi 89, được truy phong là Cẩn Nghĩa Công, thụy Cung Ý. Phần mộ ban đầu an táng tại núi Thạch Hãn, phủ Triệu Phong (Quảng Trị), về sau cải táng về La Khê, tức Khải Vận Sơn, nay thuộc huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế – nơi phong thủy linh thiêng bậc nhất phương Nam.
Lăng mộ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng tại Khải Vận Sơn.
Tới triều Gia Long – vị hoàng đế đầu tiên của nhà Nguyễn, năm Giáp Tý (1804), vua đã cho dựng Thái Miếu 13 gian tại kinh đô Phú Xuân, chính thức suy tôn Nguyễn Hoàng làm Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế, miếu hiệu thiêng liêng đứng đầu tông miếu Nguyễn triều. Từ bậc chúa khai cơ cho đến ngôi cửu trùng bảo điện, tất cả đều là kết quả của một đại nghiệp do ngài gieo hạt từ buổi đầu gian truân trên đất Thuận Hóa.
Người đã khởi dựng cơ đồ, gầy nên một thế lực sánh ngang triều đình, mở cõi tới tận trời Nam, để rồi cả trăm năm sau, dòng dõi ngài bước lên ngai vàng thống nhất giang sơn. Thật xứng danh bậc khai quốc – người dựng trấn giữ Nam, phân sơn chia nước, gây nghiệp muôn đời, để lại tiếng thơm bất hủ trong sử xanh.