Bí Mật Về Thanh Long Đao Của Mạc Đăng Dung Trong Sử Việt

Lịch sử Việt Nam ghi lại nhiều chi tiết hấp dẫn về thanh long đao của Mạc Đăng Dung – từ những thanh đao bình thường cho đến đại đao Mạc Đăng Dung lừng danh, tượng trưng cho sức mạnh và quyền lực của vị vua này.

Bộ sưu tập hơn 500 thanh đao không chỉ là biểu tượng của chiến công hiển hách mà còn chứa đựng những câu chuyện đầy bí ẩn về thời kỳ hoàng kim và những biến động trong sự nghiệp của Mạc Đăng Dung. Hãy cùng tìm hiểu câu chuyện đằng sau những vũ khí này và dấu ấn mà chúng để lại trong sử Việt.

Một trong hai thanh long đao của bậc quân vương châu Á

Ông Ngô Minh Khiêm, Trưởng ban quản lý khu tưởng niệm Vương triều Mạc (xã Ngũ Đoan – huyện Kiến Thụy – TP.Hải Phòng), mở cửa hậu cung nhà Thái miếu và giới thiệu thanh long đao được gọi là Định Nam đao của vua Mạc Đăng Dung.

Đao làm bằng sắt nay đã bị han gỉ và được đặt trang trọng trong tủ kính ngay dưới ngai thờ vị vua sáng lập triều Mạc. Thanh đao nặng 25.6kg, dài 2.55m, trong đó phần lưỡi đao dài 0.95m, cán làm từ sắt rỗng và trên sống đao có khắc nhiều hoa văn lạ chưa được giải mã.

Thanh long đao của vua Mạc Đăng Dung thờ trong hậu đường nhà Thái miếu

Thanh long đao của vua Mạc Đăng Dung thờ trong hậu đường nhà Thái miếu

Điểm nhấn đặc biệt là hình đầu rồng bằng đồng thau há miệng ngậm lấy lưỡi đao, tạo cảm giác độc đáo. Theo truyền thuyết dân gian, một thợ rèn bí ẩn khi thấy tướng mạo lạ thường của Mạc Đăng Dung – người được dự đoán sẽ làm nên nghiệp lớn nhờ võ học chứ không qua kinh sử – đã rèn thanh đao này như một lời tiên tri.

Sau khi hoàn thành, ông để lại cây đao cùng một bài kệ rằng: “Cơ nghiệp sẽ dựng nên từ đây, cây đao này chỉ dành cho người có duyên, dùng nó sẽ làm nên sự lớn”.

 Chi tiết đầu rồng bằng đồng thau nối liền giữa cán và lưỡi đao vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn.

Chi tiết đầu rồng bằng đồng thau nối liền giữa cán và lưỡi đao vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn.

Một số chuyên gia binh khí cổ Việt Nam nhận định rằng, ban đầu thanh long đao có thể nặng hơn 30 kg. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và khảo cổ cũng khẳng định đây là một trong hai thanh long đao của quân vương châu Á còn tồn tại cùng với thanh long đao của Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) – vị vua lập ra nhà Bắc Tống (Trung Quốc).

Mạc Đăng Dung đã sử dụng thanh Định Nam đao khi tham gia thi tuyển võ sĩ tại Giảng Võ đường – Thăng Long, dưới triều vua Lê Uy Mục và trúng Võ Trạng Nguyên, trở thành quân Túc vệ. Trong các cuộc trấn áp loạn lạc ở Thái Nguyên, Lạng Sơn, Thanh Hóa…, thanh đao này đã giúp ông chiến thắng, bảo vệ triều đình và thăng tiến đến chức Thái sư, tước An Hưng vương nổi bật trong triều với đức trí vượt trội.

Khi nhà Lê Sơ suy yếu, đến tháng 06/1527, vua Lê Cung Hoàng nhường ngôi cho Thái sư Mạc Đăng Dung mở ra triều Mạc với niên hiệu Minh Đức. Ông ở ngôi đến năm 1529, sau đó học theo nhà Trần, nhường ngôi cho con trưởng là Mạc Đăng Doanh và lui về làm Thái Thượng Hoàng.

Khi Mạc Thái Tổ qua đời năm 1541, thanh long đao được đưa về thờ tại lăng miếu quê hương ông ở làng Cổ Trai – huyện Nghi Dương – phủ Kim Môn – trấn Hải Dương (nay thuộc xã Ngũ Đoan – huyện Kiến Thụy – Hải Phòng).

Thái Miếu, nơi lưu giữ thanh long đao

Thái Miếu, nơi lưu giữ thanh long đao

Số phận thanh đao của Mạc Đăng Dung

Ngày 22/09/2010, Định Nam đao của Mạc Thái Tổ “quay về cội nguồn” khi dòng họ Phạm gốc Mạc tại làng Ngọc Tỉnh – thị trấn Xuân Trường – huyện Xuân Trường – tỉnh Nam Định tổ chức lễ rước báu vật này về khu tưởng niệm Vương triều Mạc, trùng với dịp Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Từ đây, câu chuyện thăng trầm theo thời cuộc của thanh long đao dần được hé lộ như một cuốn phim quay ngược thời gian.

Tương truyền, báu vật của vua Mạc Đăng Dung được phát hiện vào năm 1938, khi dòng họ Phạm gốc Mạc ở làng Ngọc Tỉnh tiến hành tu sửa từ đường và đào hồ bán nguyệt. Trước khi phát hiện ra thanh long đao, gò đất phía đông nam từ đường – được gọi là gò Con Hỏa – thường tự nhiên bốc cháy rồi tự tắt khiến người dân trong vùng lo ngại.

Khi thanh đại đao được tìm thấy, hiện tượng phát hỏa kỳ lạ này cũng biến mất. Con cháu họ Phạm gốc Mạc đã rước thanh long đao về từ đường thờ phụng, bảo quản bằng cách bọc trong lớp mỡ bò để tránh gỉ sét, đồng thời ngụy trang cẩn thận để ngăn chặn sự nhòm ngó của kẻ trộm cổ vật.

Thanh long đao đặt tại nhà thờ họ Phạm gốc Mạc ở làng Ngọc Tỉnh

Thanh long đao đặt tại nhà thờ họ Phạm gốc Mạc ở làng Ngọc Tỉnh

Quay về quá khứ, năm 1592 khi nhà Mạc thất thủ ở Thăng Long, Mạc Đăng Thuận – cháu 4 đời của Mạc Thái tổ, đã cải trang làm nhà buôn và mang theo thanh long đao xuống thuyền trốn khỏi Đồ Sơn. Đoàn thuyền xuôi dòng đến cửa sông Hồng và định cư tại vùng đất Kiên Lao (Nam Định).

Theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Mạc Đăng Thuận đổi sang họ Phạm để tránh bị nhà Trịnh truy sát nhưng vẫn giữ lại bộ thảo đầu của chữ “Mạc” để con cháu dễ dàng nhận biết.

Trải qua bốn đời tại Kiên Lao, dòng họ Phạm gốc Mạc phân chi và ông Phạm Công Úc đã mang đại đao về định cư ở Ngọc Tỉnh thờ phụng tại từ đường của chi họ.

 Nghi thức rước thanh long đao trở về làng Cổ Trai.

Nghi thức rước thanh long đao trở về làng Cổ Trai

Theo gia phả, dưới thời vua Lê Dụ Tông, hai con trai ông là Phạm Công Dục và Phạm Công Dắt đã mang theo thanh long đao lên kinh ứng thí. Cả hai đỗ võ quan và được triều đình trọng dụng. Phạm Công Dục sau đó được phong chức Đô thống phủ Tả đô đốc, tước Dục Trung hầu; Phạm Công Dắt được phong chức Quản Hữu chấn cơ, tước Phạm Sứ hầu từ đó con cháu hiển vinh.

Đến thời vua Minh Mạng (1821), trước cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành, dòng họ Phạm ở Ngọc Tỉnh đã chôn giấu thanh Định Nam đao để tránh việc nó bị lợi dụng làm linh khí trên chiến trường. Sau nhiều biến động, dấu tích nơi chôn giấu tưởng đã mất, nhưng thanh long đao lại được tìm thấy trong quá trình đào hồ bán nguyệt.

Những giai thoại về thanh bảo đao của Mạc Đăng Dung không chỉ đơn thuần là câu chuyện về một vũ khí quyền uy, mà còn là minh chứng sống động cho sự nghiệp và sức mạnh của một triều đại đầy thăng trầm trong lịch sử Việt Nam. Đao của vua Mạc Đăng Dung dù vượt qua mọi biến cố của thời gian vẫn tỏa ra hào quang của lòng dũng cảm và ý chí quyết đoán, để lại dấu ấn sâu sắc trong ký ức về một thời kỳ lịch sử kiêu hùng và đầy bí ẩn.

Lãnh thổ Việt Nam thời Minh Mạng rộng gấp 1,7 lần hiện nay