Hai Bà Trưng họ gì? Hé lộ sự thật từ sử sách xưa
Hai Bà Trưng, biểu tượng hào hùng của nữ nhi nước Việt, là hai chị em cùng dòng dõi Lạc tướng phương Nam. Cuộc khởi binh của các bà không chỉ chấn động cõi Giao Chỉ mà còn khắc ghi dấu son trong lịch sử dân tộc, khi hai nữ anh hùng vùng Mê Linh phất cờ dựng nước, chống lại sự áp bức của phương Bắc. Vậy Hai Bà Trưng họ gì, quê quán ở đâu và cuộc đời các bà được sử sách truyền lại ra sao?
Gốc tích và mỹ danh của Trưng Nữ Vương
Trưng Trắc và Trưng Nhị – hai vị nữ kiệt của đất Việt – vốn sinh trưởng nơi miền Mê Linh, thuộc quận Giao Chỉ thời Bắc thuộc. Phụ thân của Hai Bà là Lạc tướng trấn thủ Mê Linh, một hào trưởng hiển hách, cầm quyền vùng đất rộng lớn, được dân chúng kính phục. Trưng Trắc, người chị cả, từ thuở nhỏ đã bộc lộ khí phách cứng cỏi, tâm hồn cao cả, nuôi chí phục quốc, từng sớm thông thạo binh thư, võ nghệ. Trưng Nhị, người em gái, cũng không kém phần oai dũng, trí lược hơn người.
Tranh minh họa Hai Bà Trưng cưỡi voi khởi nghĩa.
Trong dân gian, Hai Bà được xưng tụng với danh hiệu “Trưng Nữ Vương”, nghĩa là hai vị nữ vương họ Trưng. Tên gọi ấy không chỉ là sự kính ngưỡng của muôn dân mà còn là biểu tượng bất khuất của phái nữ trong dòng chảy lịch sử nước Việt. Sử cũ ghi chép, Trưng Trắc vốn là phu nhân của Thi Sách – một hào kiệt đất Chu Diên, người đồng chí hướng, cùng nàng mưu việc lớn, song về sau bị quân Hán sát hại, khơi dậy cơn uất hận khiến Hai Bà dấy binh khởi nghĩa.
Danh xưng “Hai Bà Trưng” từ đó khắc sâu vào tâm khảm của trăm họ, truyền lưu thiên cổ như ngọn đuốc soi sáng tinh thần độc lập, phản kháng cường quyền của dân tộc Việt.
Hai Bà Trưng họ gì? Truy nguyên danh tính từ sử xưa
Trong lịch sử Việt Nam, Hai Bà Trưng là biểu tượng cho lòng yêu nước và sức mạnh của người phụ nữ. Tuy nhiên, một câu hỏi mà nhiều người thường xuyên đặt ra là: “Hai Bà Trưng họ gì?” Để trả lời câu hỏi này, ta phải trở lại với những tài liệu lịch sử cổ xưa, nơi ghi lại về danh tính của các bà.
Hai Bà Trưng họ gì?
Từ các sử liệu và truyền thuyết, hai bà là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Theo một số tài liệu, hai bà mang họ “Lạc”, là một phần trong gia tộc Lạc Hầu của đất Lạc Việt. Câu chuyện kể rằng, Hai Bà Trưng là con của một người trong dòng họ Lạc, có thể là Lạc Tướng. Tuy nhiên, vì nguồn sử liệu xưa không hoàn toàn rõ ràng về họ của hai bà, cho nên cũng có không ít giả thuyết về việc họ có thể mang những họ khác như họ Ngô hay họ Phùng. Thực tế, do các nguồn sử liệu không đủ đầy đủ và chính xác, việc truy nguyên họ của Hai Bà Trưng vẫn là một chủ đề gây tranh cãi.
Các sử gia Việt Nam truyền thống vẫn cho rằng hai bà có quê hương ở miền Bắc, thuộc vùng đất thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay. Tuy nhiên, vì thời kỳ đó, việc ghi chép sử liệu còn khá sơ sài và chưa có sự thống nhất trong cách viết họ tên, do vậy nhiều phiên bản khác nhau đã được truyền lại trong dân gian và văn hóa dân tộc. Chính vì thế, câu chuyện về họ của Hai Bà Trưng dù rất quan trọng trong việc tái hiện lịch sử dân tộc, nhưng vẫn để lại nhiều dấu hỏi và sự tò mò cho các thế hệ sau.
Dù mang họ gì, Hai Bà Trưng luôn là những nữ anh hùng với một sức mạnh vô biên trong lòng người dân Việt Nam, được truyền tụng qua các thế hệ và trở thành biểu tượng của sự kiên cường và dũng cảm trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước.
Xem thêm: 18 đời Vua Hùng: Huyền thoại khởi nguyên dân tộc Việt
Nguyên do dấy nghĩa và thế cuộc binh vong
Vào buổi giao thời Đông Hán mới thu phục đất Giao Chỉ từ nhà Triệu, chính sách cai trị khắc nghiệt dần dần bộc lộ sự hà khắc đến tận xương tủy. Tô Định – viên Thái thú được triều đình phương Bắc sai đến – nổi tiếng là kẻ bạo ngược, ức hiếp dân lành, tàn bạo với các dòng hào tộc địa phương. Chúng vơ vét sản vật, bóc lột nhân dân, đàn áp phong tục bản xứ, khiến lòng người uất nghẹn, oán khí tích tụ ngày một dày.
Trong bối cảnh đó, Trưng Trắc – con gái Lạc tướng huyện Mê Linh, phu nhân của Thi Sách – là người sớm mang chí lớn. Thi Sách, phu quân nàng, vốn cũng là dòng hào tộc đất Chu Diên, dám ngang nhiên chống đối sự áp bức của Tô Định nên bị sát hại thảm khốc. Cái chết oan khuất của phu quân như ngọn lửa thiêu cháy lòng son, khiến Trưng Trắc dấy lòng báo thù, cứu dân, rửa mối hờn của cả một cõi Lạc Việt.
Tranh Đông Hồ miêu tả cảnh Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống giặc.
Năm 40 sau Công nguyên, Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa tại Mê Linh. Tiếng gọi của hai bà như hiệu lệnh trời, chư tộc Lạc Việt bốn phương hưởng ứng. Cuộc khởi binh nhanh chóng lan rộng, đánh chiếm được hơn sáu mươi thành trì, quét sạch thế lực Hán khỏi Giao Chỉ. Nghĩa quân giành thắng lợi lớn, chính Trưng Trắc được suy tôn làm vua, đóng đô tại Mê Linh, lập nên một triều đình độc lập, khôi phục chủ quyền Lạc Việt sau hơn hai trăm năm bị đô hộ.
Thế cuộc chiến chinh khi ấy là một minh chứng rạng ngời cho lòng quả cảm, tài thao lược và sức mạnh kết đoàn của cư dân đất Việt, đứng lên từ khổ nhục tang thương, dựng lại cơ đồ với ngọn cờ nghĩa nữ làm đầu.
Tam niên tráng lệ giữa quang huy và bi thống
Sau khi quét sạch thế lực phương Bắc, Hai Bà Trưng dựng nền chính thống tại Mê Linh, xưng vương và lập quốc, đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử nước Việt có nữ vương chấp chính thiên hạ. Triều đình của Trưng Vương tuy đơn sơ mà chính nghĩa, lấy lòng người làm gốc, khôi phục phong tục cũ, giảm sưu thuế, lo tu bổ đất nước sau binh đao. Các quận huyện Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam… đều quy phục, nhân dân vỗ tay reo mừng như vừa tỉnh khỏi giấc mộng dài u tối.
Thế nhưng, sự độc lập non trẻ ấy chẳng thể khiến Hán triều nguôi ngoai dã tâm xâm lấn. Năm 42, Hán Quang Vũ sai Mã Viện – lão tướng lừng danh, lắm mưu nhiều mẹo – đem đại binh sang tái chiếm Giao Chỉ. Đối diện trước đội quân hùng mạnh, quân dân Lạc Việt tuy gan dạ mà binh lực kém xa. Cuộc kháng chiến kéo dài trong gian truân, từng trận giao tranh đẫm máu khiến thế lực nghĩa quân hao mòn.
Đến năm 43, sau trận chiến sinh tử ở Cấm Khê, Hai Bà cùng quân sĩ bị vây khốn. Biết không thể toàn thân, Trưng Trắc và Trưng Nhị chọn cái chết để giữ trọn tiết liệt, gieo mình xuống dòng Hát Giang, hóa thân vào linh khí non sông, để lại âm vang muôn đời về một thời oanh liệt hiếm có trong sử Việt.
Năm 43, Hai Bà Trưng đánh bại quân Hán xâm lược.
Ba năm tuy ngắn ngủi, nhưng đủ để khắc ghi hình bóng nữ vương vào sử xanh; một triều đại ngời sáng giữa những ngày đen tối nhất của dân tộc – nơi vinh quang và bi tráng hòa quyện trong từng trang sử huyết lệ.
Hậu thế tôn vinh – Địa danh tranh luận giữa sử và địa
Tuy cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại trước binh lực hùng hậu của phương Bắc, nhưng tinh thần bất khuất và tấm gương tiết liệt của Hai Bà Trưng đã trở thành biểu tượng sáng ngời trong tâm thức người Việt suốt bao đời. Ngay từ thuở xưa, nhân dân đã lập đền thờ Hai Bà khắp nơi, từ Hát Môn – quê hương khởi nghĩa, đến Mê Linh – kinh đô xưng vương và đặc biệt tại vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi lưu truyền câu hát ca tụng:
“Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.”
Danh hiệu Trưng Vương không chỉ là vương hiệu nhất thời, mà là biểu tượng của chủ quyền dân tộc và khí phách nữ nhi đương đầu cùng thiên triều. Qua các triều đại, từ Lý – Trần đến Nguyễn, Hai Bà vẫn được liệt vào hàng anh hùng dân tộc, phong làm “Nhị vị đại vương”, sắc phong gia tặng, đền thờ trùng tu, lễ hội linh đình, khẳng định vai trò bất tử trong sử thi Việt.
Bản đồ Lĩnh Nam thời kỳ Hai Bà Trưng.
Tuy nhiên, những tranh luận học thuật quanh địa điểm xảy ra các sự kiện lịch sử vẫn tiếp diễn suốt nhiều thế kỷ. Thí dụ như: địa danh Cấm Khê nơi Hai Bà tuẫn tiết – sử cũ như “Đại Việt sử ký toàn thư” và nhiều thần tích cho rằng thuộc huyện Yên Lạc (nay thuộc Vĩnh Phúc), song cũng có học giả xác lập là vùng Phú Thọ hay Hòa Bình ngày nay. Vấn đề càng thêm phức tạp khi địa danh cổ đổi thay theo thời cuộc, khiến việc xác tín sử liệu cần nhiều khảo cứu công phu, đối chiếu cả văn bản và địa tầng khảo cổ.
Tuy tranh luận còn tồn tại, song điều không thể phủ nhận là ảnh hưởng sâu sắc của Hai Bà Trưng trong lịch sử và văn hóa Việt. Các nhà sử học hiện đại tiếp tục tìm tòi, bổ sung, nhằm phục dựng rõ hơn bức tranh lịch sử hào hùng về hai vị nữ vương – người đã dám cất cao ngọn cờ độc lập giữa thời buổi trăm bề nghiêng ngả.
Xem thêm: Quang Trung Nguyễn Huệ – Vị anh hùng dân tộc lẫy lừng sử Việt
Dòng máu Lạc Hồng chảy mãi trong tâm thức người Việt
Từ buổi đầu dựng nước, Hai Bà Trưng đã khắc họa nên bản anh hùng ca đầu tiên của nữ kiệt Đại Việt, khẳng định tinh thần độc lập, lòng trung trinh và chí khí không khuất phục của người con gái đất Lạc Hồng. Khởi nghĩa tuy chỉ kéo dài ba năm, song dư vang lịch sử còn vọng mãi muôn đời. Hào khí Trưng Vương trở thành ngọn lửa thiêng truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hun đúc nên bản lĩnh và niềm tự hào dân tộc.
Đền Đồng Nhân tại Hà Nội thờ phụng Hai Bà Trưng.
Dẫu sử cũ còn những điều chưa sáng tỏ, dẫu địa danh xưa đã nhiều lần đổi dời, nhưng giá trị tinh thần mà Hai Bà để lại thì vững bền như non nước. Hai vị nữ vương không chỉ được nhân dân tôn kính qua đền miếu, lễ hội, mà còn sống mãi trong thơ ca, sử sách và từng nhịp đập của trái tim người Việt.
Dòng máu Lạc Hồng – dòng máu kiên cường, nghĩa khí và giàu lòng yêu nước – từ Hai Bà Trưng cho đến bao thế hệ anh hùng sau này, vẫn đang âm thầm chảy mãi trong mỗi con dân nước Việt, như một minh chứng bất diệt rằng: non sông này được giữ gìn không chỉ bằng gươm giáo, mà còn bằng khí phách và lòng trung nghĩa muôn thuở.