Hoàng Diệu là ai? Vị quan quyết tử vì thành Hà Nội

Thành mất, thần chết theo thành” – câu nói bi tráng ấy đã ghi tên Hoàng Diệu vào sử sách như một biểu tượng kiên cường của lòng trung liệt. Vậy Hoàng Diệu là ai, ông đã làm gì để trở thành người con kiệt xuất trong lịch sử dân tộc?

Hoàng Diệu là ai?

Hoàng Diệu (1829–1882), húy là Hoàng Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, là một vị đại thần nhà Nguyễn nổi danh vì lòng trung quân, ái quốc. Sinh ra tại làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, ông xuất thân từ một gia đình nho học, có truyền thống hiếu học và nhiều người đỗ đạt cao trong khoa cử triều Nguyễn.

Hoàng Diệu là ai?

Chân dung Tổng đốc Hoàng Diệu trong “Việt Nam Sử Lược” (NXB Văn học, 2015).

Ngay từ thuở thiếu thời, ông đã tỏ ra xuất chúng. Năm 20 tuổi, đỗ Cử nhân, năm 25 tuổi đỗ Phó bảng dưới triều vua Tự Đức. Ông từng giữ nhiều trọng trách như Tri huyện, Tri phủ, Án sát, Bố chính, Tham tri các bộ Hình, Lại rồi đến Tổng đốc Quảng Nam, Tổng đốc An Tịnh.

Nhưng dấu son chói lọi nhất trong sự nghiệp của ông là cương vị Tổng đốc Hà Ninh – trấn thủ Hà Nội vào thời điểm hiểm họa xâm lăng từ thực dân Pháp lên đến đỉnh điểm.

Hoàng Diệu và tấm lòng trung nghĩa với Hà thành

Giữa thời mạt vận của triều Nguyễn, khi cơn cuồng phong xâm lăng của thực dân phương Tây cuốn đến cửa Bắc Kỳ, một vị đại thần vẫn giữ trọn tiết tháo, dẫu triều đình nhu nhược, vận nước điêu linh. Người ấy chính là Hoàng Diệu – vị Tổng đốc Hà Ninh trung liệt, người đã lấy thân mình mà đáp đền sơn hà, để lại tấm gương sáng ngời về lòng trung nghĩa với kinh kỳ phương Bắc.

Ngay từ lúc nhậm chức Tổng đốc Hà Ninh, Hoàng Diệu đã biết rõ dã tâm thôn tính của quân Pháp, liền một mặt tu sửa thành lũy, huấn luyện quân sĩ, mặt khác dâng biểu về kinh xin triều đình chi viện. Nhưng lời ông như nước đổ lá sen, chỉ nhận về sự quở trách vô lý. Dẫu vậy, ông vẫn một lòng tận trung, tự mình gánh lấy trọng trách giữ vững thành Hà Nội.

Khi đại tá Henri Rivière cùng bốn tàu chiến áp sát thành, Hoàng Diệu nhận tối hậu thư trong buổi sớm đầy sát khí. Dẫu biết lực lượng chênh lệch, ông không hề run sợ, vẫn cho người ra điều đình để tìm kế hoãn binh. Nhưng quân Pháp đã nổ súng khi cuộc thương nghị còn dang dở. Trước thế giặc mạnh như triều dâng, Hoàng Diệu đã thân chinh chỉ huy phòng thủ, giữ từng tấc thành trong tiếng pháo địch.

Song khi thế thành đã mất, viện binh không tới, lòng ông như đã định. Không để thân rơi vào tay giặc, không để phải quỳ gối trước kẻ thù, ông lui về Võ Miếu – nơi thờ các bậc trung thần và thắt cổ tuẫn tiết. Một hành động bi hùng khiến cả đất kinh kỳ rúng động.

Quân Pháp công phá thành Hà Nội

Quân Pháp công phá thành Hà Nội.

Ngày hôm sau, giữa lúc khói lửa còn vương nơi tường thành, nhân dân Hà Nội đã gấp rút thu liệm thi hài ông, đưa về an táng tử tế, như một cách tri ân người đã quyết tử vì thành. Cái chết của Hoàng Diệu không đơn thuần là sự ra đi của một bậc quan, đó là khúc tráng ca của lòng trung quân ái quốc, là tiếng gầm cuối cùng của một thời vàng son đang tàn lụi.

Tấm bia “Lệnh cấm trừ tệ” ông cùng Hoàng Hữu Xứng dựng nơi Ô Quan Chưởng vẫn còn đó, như một minh chứng cho tấm lòng lo đời thương dân. Và lăng mộ ông nơi quê nhà Quảng Nam nay đã được ghi danh vào sử sách, như lời khắc ghi không phai mờ về một vị Tổng đốc lấy cái chết để dâng trọn lời thề với non sông.

Tấm lòng vì dân, tấm gương liêm chính

Trong suốt quãng đời làm quan giữa thời quốc biến, Hoàng Diệu không chỉ nổi danh bởi tiết tháo trung liệt mà còn bởi tấm lòng lo trước nỗi lo của thiên hạ, sống thanh liêm, giản dị, hết lòng vì sinh dân trăm họ.

Từ khi giữ chức Tổng đốc Hà Ninh, ông một mặt lo phòng thủ trước giặc ngoại xâm, mặt khác chú trọng việc trị an, chấn chỉnh thuế khóa, không để dân phải gánh thêm gánh nặng trong cảnh nước mất nhà tan. Ông từng cho dựng tấm bia đá tại cửa ô để răn quan lại, cấm mọi hành vi sách nhiễu nhân dân – một cử chỉ tuy nhỏ nhưng thể hiện khí tiết và tấm lòng thương dân như con đỏ.

Hoàng Thành.

Hoàng Thành – nơi Hoàng Diệu đã anh dũng xả thân vì nước.

Hoàng Diệu xem trọng giáo hóa, thường lấy lễ nghĩa và đạo lý Khổng Mạnh để răn dạy thuộc hạ, khuyến khích lối sống thanh bạch, cần kiệm. Trong tư dinh, ông không tích chứa vàng bạc hay xây cất xa hoa, chỉ lấy sự liêm khiết làm gốc. Tài sản để lại cho hậu thế chẳng là của cải vật chất, mà chính là danh thơm và nhân cách cao quý.

Sau khi ông tuẫn tiết giữ thành, nhiều người đã nhỏ lệ xót thương không chỉ vì cái chết bi hùng, mà còn vì mất đi một vị quan thanh liêm, suốt đời tận tụy với dân. Người dân Hà thành khi ấy đã thầm khấn nguyện bên linh cữu ông, coi ông như vị quan phụ mẫu – một người cha hiền luôn lấy sự an dân làm đầu.

Tấm gương của Hoàng Diệu sáng mãi trong sử sách, không chỉ bởi sự trung nghĩa với triều đình, mà còn vì cái tâm trong sạch, cái đức vì dân, là tấm gương soi rọi cho bao thế hệ sau này giữa thời loạn lạc hay thịnh trị.

Hậu thế ghi ơn người trung liệt

Dẫu thời gian trôi qua, lòng người đổi thay, nhưng khí tiết của Tổng đốc Hoàng Diệu vẫn sáng rỡ trong sử xanh, như đuốc thiêng soi đường nghĩa khí cho muôn đời hậu thế. Sự trung dũng khi giữ thành, tấm lòng tận tụy với sinh dân và cái chết tuẫn tiết để bảo toàn danh dự đã khắc ghi tên tuổi ông vào hàng những bậc trung thần nghĩa sĩ của non sông Đại Nam.

Sau ngày Hà thành thất thủ, dân chúng cảm thương và ngưỡng mộ, lập bàn thờ tưởng niệm vị quan tiết nghĩa ngay tại nơi ông trút hơi thở cuối cùng. Từ kinh thành Thăng Long tới quê hương Điện Bàn, đâu đâu cũng nhắc đến ông với niềm kính ngưỡng sâu xa. Triều đình nhà Nguyễn về sau cũng sắc phong, truy tặng ông những danh hiệu cao quý, thể hiện sự tôn vinh xứng đáng đối với bậc trung liệt.

Trung Liệt miếu

Câu đối tại cổng Trung Liệt miếu Gò Đống Đa tưởng nhớ Hoàng Diệu.

Tại Hà Nội, tên tuổi Hoàng Diệu được đặt cho những con đường, trường học, bia tưởng niệm… như một lời nhắc nhở về tinh thần bất khuất của một vị quan vì nước quên thân. Trong tâm thức người Việt, hình ảnh ông mãi mãi là biểu tượng của lòng trung quân ái quốc, là tấm gương soi chiếu cho lớp lớp người sau giữ trọn đạo làm tôi, làm dân trong cơn quốc biến.

Hoàng Diệu ra đi, nhưng chính khí ông để lại trường tồn cùng non nước. Hậu thế nghiêng mình trước tiết tháo kiên trung, ghi nhớ công đức của người đã lấy cái chết để giữ trọn danh tiết, lấy nhân cách để cứu vớt lương tri giữa cơn quốc nạn.

123b