Kháng chiến Mông Nguyên lần 2: Hào khí Đông A giữa trời lửa
Năm 1285, một lần nữa vó ngựa phương Bắc tràn xuống phương Nam với mưu đồ thôn tính Đại Việt. Trước thế lực bạo tàn của Nguyên triều, nước non Đại Việt không hề run sợ mà ngược lại, vùng dậy như sóng lớn triều Đông Hải, ghi nên trang sử chói lọi trong cuộc kháng chiến Mông Nguyên lần 2.
Bối cảnh lịch sử
Cơn cuồng nộ từ phương Bắc
Sau đại bại tại Đại Việt năm 1258, Hốt Tất Liệt – Thiên tử mới của thiên triều Đại Nguyên – vẫn ôm hận chưa nguôi. Năm 1279, sau khi bình định toàn cõi Nam Tống, thiên tử Nguyên lại một phen dòm ngó phương Nam, chuẩn bị lực lượng để thôn tính Đại Việt và Nhật Bản. Lòng tham bành trướng của đại quốc chưa hề nguội lạnh, mà còn nung nấu sâu hơn trong tim dạ của đế chế phương Bắc.
Kỵ binh Mông Nguyên trong chiến dịch xâm lược.
Đầu năm 1281, khi nhà Trần cự tuyệt yêu sách triều cống của Nguyên triều, Hốt Tất Liệt liền dùng kế ly gián: phong Trần Di Ái – chú họ của vua Trần – làm “An Nam quốc vương”, lập mưu thay ngôi nhà Trần. Tuy nhiên, mưu kế này nhanh chóng bị nhà Trần phát giác và đập tan.
Trần Nhân Tông cho quân mai phục đánh tan đoàn hộ tống của Nguyên triều, buộc Di Ái chạy trốn về phương Bắc, chỉ còn Sài Thung lưu lại chịu nhục. Từ đây, quan hệ giữa hai triều đình ngày một căng thẳng, hận thù chất chồng.
Mưu kế vây ép từ hai hướng
Nguyên triều toan tính đại kế: dùng hai cánh quân chia đường vây hãm nước Nam. Một đạo quân do Thoát Hoan – Trấn Nam Vương, con trai của Hốt Tất Liệt – chỉ huy, tiến từ phương Bắc. Một cánh quân khác do Toa Đô dẫn đầu, sau khi tàn phá Chiêm Thành, sẽ từ phương Nam đánh lên, hợp lại tạo thế gọng kìm giết chóc. Cùng với Toa Đô còn có các danh tướng Mông – Hán như Ariq Qaya, Lý Hằng, Ô Mã Nhi và nhiều danh tướng các sắc tộc khác.
Quân Nguyên lần này được tập hợp không dưới 40 – 50 vạn quân, quy mô lớn nhất trong các cuộc chinh phạt của đế quốc Nguyên. Không chỉ quân chính quy, hàng chục vạn dân phu, mã phu, khuân lương, đóng thuyền… cũng bị trưng dụng từ khắp các địa phương phương Bắc để phục vụ đại binh viễn chinh.
Thế nước – lòng dân quy nhất
Trước đại họa xâm lăng, triều đình Đại Việt nhanh chóng củng cố binh bị, tăng cường huấn luyện, tích trữ lương thảo, xây dựng hệ thống phòng thủ chiến lược. Dưới sự điều binh khiển tướng của Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo, Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và Thánh thượng Trần Nhân Tông, tướng sĩ một lòng, trăm họ đồng tâm, tạo thành một khối vững như thành đồng vách sắt.
Dẫu trong nội bộ có kẻ hoài nghi, có vương hầu tỏ lòng ngả nghiêng trước thế mạnh phương Bắc, nhưng trước ngọn cờ chính nghĩa của triều đình, đại nghĩa đã lấn át tiểu tình, sức dân hòa cùng sức quân, lòng người quy về một mối.
Biển lửa bão binh – Đại Việt bất khuất
Từ cuối tháng Giêng đến cuối tháng 5 năm 1285, non sông Đại Việt nhuốm lửa binh đao. Quân Nguyên tiến như vũ bão, chiếm Thăng Long, chia quân truy sát, đón lõng, tìm cách tiêu diệt triều đình và tiêu hao lực lượng kháng chiến.
Thế nhưng, giữa những tháng ngày máu lửa, ánh hào quang Đông A vẫn rực rỡ. Tại sông Như Nguyệt, Vạn Kiếp, Tây Kết, Hàm Tử, Trần Hưng Đạo tung binh phục kích, chia cắt địch, phá tan kế sách hiệp kích của hai đạo quân Nguyên. Trận Hàm Tử vang danh, quân ta tiêu diệt hàng vạn quân Toa Đô. Trận Chương Dương rực rỡ, quân dân Đại Việt giành lại thế chủ động. Và khi lực lượng địch kiệt quệ, triều đình phát động tổng công kích, đại thắng vang dội.
Toa Đô bị chém đầu, Thoát Hoan chạy dài về phương Bắc, chui ống đồng trốn mạng. Hàng chục vạn quân Nguyên bỏ mạng nơi đồng ruộng, núi sông phương Nam.
Diễn biến cuộc kháng chiến Mông Nguyên lần 2
Ba mũi công phá của giặc Nguyên
Vương triều Nguyên, sau thất bại lần trước, quyết tâm đem toàn lực đánh chiếm nước Nam. Địch nhân bố trí tam lộ đại binh:
- Đạo thứ nhất là cánh quân chủ lực do Thoát Hoan và A Lý Hải Nha cầm đầu, từ Ninh Minh vượt Lộc Châu (nay là Lộc Bình, Lạng Sơn) mà nhập cảnh. Ngày mồng 3 tháng Giêng năm Mậu Tý (27/1/1285), chúng phân binh thành hai nhánh. Một nhánh do Bột La Hợp Đáp Nhĩ dẫn đường qua Khâu Ôn; nhánh kia do Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến theo lối Cấp Lĩnh mà tiến. Chủ tướng Thoát Hoan theo sau, lặng lẽ áp sát.
- Đạo thứ hai tuy quân số chỉ độ nghìn binh, nhưng gồm hạng tinh binh Mông – Vân Nam, do tướng Nasirud Din cầm đầu, men theo sông Chảy từ Tuyên Quang đánh xuống. Tướng Trần Nhật Duật được phó thác trấn giữ miền thượng du.
- Đạo thứ ba do tướng Toa Đô chỉ huy, sau khi bình định Chiêm Thành, từ phương Nam đánh ngược lên vào tháng Ba năm ấy.
Thế rút lui khôn ngoan: Dĩ nhu chế cương
Trận tuyến Khả Ly – Chi Lăng
Cuộc chạm trán đầu tiên xảy ra tại ải Khả Ly. Tướng địch là Tôn Hựu mở đường, đánh tan quân tiên phong của Đại Việt, bắt được tướng Đỗ Vĩ và Đỗ Hựu. Kế đó, giặc lại thắng ở ải Động Bản, chém tướng Trần Sâm. Năm ngày sau, binh lực chính của Thoát Hoan tràn xuống các ải Vĩnh Châu, Thiết Lược, Chi Lăng như dòng lũ cuộn.
Ngày mồng 9 tháng Giêng, sáu mũi quân Nguyên nhất tề công phá ải Nội Bàng – nơi đặt đại bản doanh của Trần Hưng Đạo. Dù anh dũng nghênh chiến, quân Trần vẫn bị tổn thất nặng, tướng Đoàn Thai bị bắt. Trần Hưng Đạo phải lui về Vạn Kiếp, nhờ Yết Kiêu gan dạ giữ thuyền chờ chủ tướng, mới thoát khỏi vòng vây.
Bản đồ kháng chiến Mông Nguyên lần 2 thời Trần.
Vạn Kiếp đỏ lửa
Đạo quân Trần rút lui, tập kết về Vạn Kiếp. Nhận tin quân Đại Việt đóng hơn nghìn chiến thuyền tại đây, Thoát Hoan lập tức sai quân đóng thuyền chặn đường thủy binh. Ngày 17 tháng Giêng, thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi thống lĩnh đánh vào Vạn Kiếp, mở màn trận đại chiến với quân Trần ở Chí Linh. Cấp vạn hộ Nghê Nhuận bỏ mạng tại trận, song thế giặc vẫn rất mạnh.
Trần Nhân Tông truyền khắc hai câu thi trên thuyền ngự:
“Cối Kê việc cũ khanh nên nhớ
Hoan, Diễn vẫn còn mười vạn quân”
Lấy đó làm lời khích lệ tướng sĩ.
Ba ngày sau, Ô Mã Nhi đem thủy quân vây đánh Trần Hưng Đạo. Vua Trần đích thân dẫn binh cứu viện, tổ chức phản công rồi toàn quân rút lui về phía Phả Lại, Bình Than và dàn trận bên sông Hồng, chuẩn bị cho trận chiến giữ kinh thành.
Bảo vệ kinh thành: Trận tuyến sông Hồng – Thăng Long
Trận sông Đuống
Binh Nguyên theo đường Vũ Ninh, Đông Ngạn kéo xuống. Giao chiến diễn ra ác liệt tại bến sông Đuống, nhiều thuyền Đại Việt rơi vào tay địch. Thoát Hoan cho bắc cầu phao vượt sông, tiến thẳng tới Thăng Long.
Đại chiến Thăng Long
Ngày 23 tháng Giêng, quân Nguyên dựng trại bên bờ Nam sông Hồng. Quân Trần lập chiến lũy bằng gỗ bên bờ Bắc, thủy binh sẵn sàng nghinh địch dưới sông. Dưới sự chỉ huy của Trần Nhân Tông, quân Đại Việt vừa giao chiến, vừa thực hiện kế “vườn không nhà trống”, thiêu sạch các làng xóm, đồng ruộng ven kinh đô, giữ vững tinh thần “tiêu thổ kháng chiến”.
Đến chiều hôm ấy, sứ giả Đỗ Khắc Chung giả vờ cầu hòa để dò thám quân địch. Trận chiến nổ ra ngay rạng sáng hôm sau, nhưng khi thành Thăng Long đã được triều đình sơ tán toàn bộ.
Thoát Hoan dẫn quân vào thành, thấy cung khuyết bỏ trống, chỉ còn gió thổi qua hành lang đá lạnh. Giặc dựng trại bên bờ Bắc sông Hồng, chờ hợp binh với Toa Đô từ phương Nam.
Quân Nguyên thất thế trước kế “vườn không nhà trống”.
Chiến địa phía thượng du và miền sông nước
Trận Thu Vật
Nasirud Din theo sông Chảy tới Thu Vật, bị Trần Nhật Duật đón đánh. Dù chi viện rút, Nhật Duật cũng khéo léo rút binh theo đường bộ, về đến Bạch Hạc (Việt Trì) an toàn. Ông liền được điều vào trận địa phương Nam để ngăn Toa Đô.
Những trận thủy chiến liên hoàn
Đạo quân chủ lực, hoàng gia và triều đình rút về Thiên Trường theo dòng sông Hồng. Quân Nguyên chia hai đường thủy – bộ truy đuổi ráo riết. Các tướng Trần lập loạt trận đánh chặn để bảo vệ long xa.
Tại bãi Đà Mạc, Trần Bình Trọng chỉ huy đội quân Thánh Dực, với 600 dũng sĩ gan thép đã cản bước hàng nghìn quân Mông đang hừng hực khí thế. Sáu đợt công kích đẫm máu, quân Nguyên thương vong vô số, buộc phải ngừng truy kích trong chốc lát.
Thế giằng co tan vỡ – Khởi sự phản công của quân Trần
Sau khi rút quân về vùng Thanh Hoa để chấn chỉnh binh mã, vua Trần cùng Thái thượng hoàng đã khẩn trương tổ chức lại lực lượng. Trong khi đó, binh đoàn Thoát Hoan đóng tại miền Bắc vốn không quen phong thổ, gặp tiết trời oi bức, lại thêm dịch bệnh, lương thảo hao hụt, khiến khí thế sa sút rõ rệt. Ở phương Nam, Toa Đô kéo quân từ đất Thiên Trường, hội cùng Ô Mã Nhi truy tìm tung tích triều đình Trần tại Thanh Hoa, song vô ích, đành tạm dừng tìm kế tiếp tế lương thực.
Nắm rõ thời cơ, tháng tư năm đó, Thánh thượng cho đại quân tiến về Bắc, trực chỉ các vị trí trọng yếu ven khúc Hồng Hà chảy ngang đất Khoái Châu (nay thuộc Hưng Yên). Đây là bước mở đầu cho cuộc phản công quy mô lớn, lấy Khoái Châu làm bàn đạp tiến công Thăng Long – trung tâm đầu não giặc Nguyên.
Hàm Tử chém tướng – Tây Kết phá địch
Vùng Thanh Hoa khi ấy còn cánh quân Toa Đô án ngữ. Không tìm thấy dấu vết quân Trần, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi quyết định tiến về phía Bắc, mưu đồ hiệp binh với Thoát Hoan. Sử chép có hai thuyết về thời điểm di chuyển của cánh quân này: có thuyết cho rằng họ rời Thanh Hoa vào tháng tư, do đó tham chiến tại cả Hàm Tử lẫn Tây Kết; thuyết khác lại ghi nhận họ chỉ đến Bắc vào đầu tháng năm nên vắng mặt tại Hàm Tử.
Trong bối cảnh đó, Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật thống lĩnh quân tiên phong, có Chiêu Thành vương và Trần Quốc Toản làm phó tướng, cùng Nguyễn Khoái đưa 5 vạn quân đánh trận Hàm Tử. Đặc biệt, trong đội quân có cả danh tướng Triệu Trung – một hàng tướng nhà Tống cũ, mang theo binh sĩ người Hoa nguyện hi sinh vì mối thù mất nước.
Khi giáp chiến, quân Trần chia quân đánh úp, kẻ đánh mặt tiền, người phục kích sau lưng. Cờ hiệu nhà Tống tung bay khiến quân Nguyên lo sợ nhà Tống đã phục quốc. Quân người Hoa trong hàng ngũ Nguyên thì bị lung lạc bởi kế ly gián: Trần quân bắn tên mang thư viết rằng chỉ đánh người Thát Đát, không sát hại Hoa nhân. Nhiều người từ đó sinh lòng ngờ vực, thậm chí trở giáo về với Đại Việt.
Trận Hàm Tử, Toa Đô vong mạng, giặc Nguyên đại bại.
Toa Đô sau nhiều ngày kịch chiến đã đại bại, lui về Tây Kết. Tại đây, ngày 24 tháng 6 năm 1285, Hưng Đạo vương thân chinh chỉ huy trận đánh quyết định. Toa Đô thua lớn, bị truy sát, cuối cùng bị dũng tướng Vũ Hải chém đầu. Ô Mã Nhi trốn thoát về Thanh Hoa. Khi Trần Nhân Tông thấy thủ cấp Toa Đô, liền nói: “Làm bề tôi phải như thế này!” rồi truyền khâm liệm tử tế – tỏ lòng kính trọng kẻ trung can nghĩa khí dù là địch nhân.
Chương Dương rực lửa – Thăng Long thu về
Chiến thắng Hàm Tử làm rung chuyển toàn cõi, Trần Quốc Toản lập tức hồi báo triều đình. Hưng Đạo vương bàn bạc cùng vua, quyết định đem toàn quân ra Bắc tiêu diệt Thoát Hoan, giải phóng Thăng Long.
Trần Quang Khải từ Nghệ An mới trở về, được trao binh quyền làm chánh tướng; Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản làm phó tướng. Đồng thời Trần Nhật Duật được lệnh chặn đường không cho Toa Đô hiệp binh với Thoát Hoan.
Thoát Hoan khi đó đang cố thủ tại Thăng Long, lương thực cạn dần, chiến thuyền tụ về bến Chương Dương. Trần quân hành binh thần tốc, phá hàng loạt đồn lẻ, chiêu dụ được nhiều binh lính người Hoa bỏ hàng ngũ Nguyên. Các đội quân lẻ tẻ trước kia chưa kịp quy tụ cũng lần lượt nhập vào đại quân, khiến thanh thế Trần triều thêm phần lẫm liệt.
Quân Trần tiến thẳng lên bến Chương Dương (nay thuộc huyện Thường Tín), mở trận đánh long trời lở đất. Quân Nguyên, tưởng Trần quân đã kiệt quệ, bất ngờ bị phản công mãnh liệt, rối loạn hàng ngũ, phần lớn thuyền bị thiêu hủy hoặc bị bắt sống.
Phục hồi kinh sư – Dân tộc bừng dậy
Sau liên tiếp các trận thắng vang dội, triều đình Trần phát lệnh giải phóng Thăng Long. Các đạo quân chủ lực do Trần Quang Khải cầm đầu, phối hợp cùng dân binh các vùng do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền chỉ huy, đã siết vòng vây quanh thành.
Phục hồi kinh sư Thăng Long, Trần quân đại thắng Chương Dương, giặc Nguyên tháo chạy.
Theo ghi chép trong sử Trung Hoa, quân Trần “vây thành mấy vòng, tuy tử trận nhiều nhưng binh sĩ cứ càng đánh càng đông”, khiến quân Nguyên “sớm tối bị đánh, lương cạn, khí giới hết, mỏi mệt đến tận cùng”. Kỵ binh Mông Cổ từng lừng danh thiên hạ nay cũng phải bó tay bất lực.
Trước áp lực mãnh liệt, Thoát Hoan đành bỏ thành Thăng Long, rút lui về phía Bắc Hồng Hà, khởi đầu cho cuộc tháo chạy hỗn loạn và thất bại toàn diện của đoàn quân xâm lược.
Truy binh Mông – Nguyên: Tinh kỳ Đại Việt rực sáng sông núi
Hồi cuối bi hùng của chiến dịch phản công
Ngày mồng mười, tháng sáu, niên hiệu Trùng Hưng thứ nhất (1285), Đại tướng quốc công Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng Hưng Ninh Vương Trần Tung dẫn đại quân hơn hai vạn người tiến công cánh quân Nguyên tại bờ Bắc sông Hồng. Lưu Thế Anh – tướng tiên phong của phương Bắc – ứng chiến nhưng đại bại, phải triệt binh chạy dạt về phương Bắc.
Đến bờ sông Như Nguyệt (nay là sông Cầu), quân Nguyên lại bị nghĩa quân của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản ngăn cản. Trận đánh ác liệt khiến quân giặc không thể vượt sông, buộc phải tháo lui về Vạn Kiếp. Trong hồi binh đao dữ dội ấy, Trần Quốc Toản anh dũng tử trận, lưu danh muôn thuở.
Quân Nguyên đến khúc sông Sách (đoạn sông Thương chảy qua Vạn Kiếp), lập cầu phao toan vượt sông. Song quân Trần dưới quyền Hưng Đạo Vương bất thần đánh úp. Lý Hằng – tướng giặc – tạm đẩy lùi một mũi quân Đại Việt, sát hại dũng tướng Trần Thiệu. Nhưng một mũi khác đánh chéo sườn khiến quân Nguyên rối loạn, cầu phao gãy nát, quân giặc rơi xuống dòng, chết đuối vô số.
Bại binh phương Bắc: Trốn chạy trong khói lửa
Thoát khỏi sông Sách, quân Nguyên rút chạy về hướng Tư Minh. Lý Hằng lĩnh trách nhiệm hậu quân, đoạn hậu cho đoàn binh tan tác. Đến địa phận Vĩnh Bình, quân Trần do Trần Quốc Hiến (tức Trần Quốc Nghiễn – trưởng tử của Trần Quốc Tuấn) lại chặn đánh quyết liệt. Lý Hằng trúng tiễn độc, đến Tư Minh thì uổng mạng, hưởng thọ 50 tuổi.
Trần quân phá tan cánh quân Nguyên ở sông Hồng, Lý Hằng tử trận nơi Tư Minh.
Cánh quân Vân Nam do Nasirud Din chỉ huy cũng tan tác. Khi rút chạy về đến Phù Ninh thì bị lực lượng của Hà Đặc và Hà Chương đánh úp. Dẫu giành thắng lợi, nghĩa sĩ Hà Đặc cũng tử trận.
Nội biến cung đình: Vết nhơ trong chính sử
Trong trận chiến oanh liệt ấy, vẫn có kẻ vong ân phản quốc. Đầu tiên là Trần Di Ái – thân đệ của Trần Thái Tông, chú ruột Trần Thánh Tông – từng được cử đi sứ phương Bắc. Hốt Tất Liệt trao phong hiệu “An Nam Quốc Vương”, lấy cớ dựng vua mới. Nhưng y bị quân Trần đón đánh, phải bỏ trốn giữa đường.
Tiếp đến là Trần Ích Tắc – hoàng tử thứ của Trần Thái Tông, vốn có học vấn cao, từng ôm mộng tiếm quyền đoạt vị. Ngày 15 tháng 3 năm ấy, Ích Tắc đem cả gia quyến đến quy thuận Mông – Nguyên, hi vọng được lập làm bù vương. Về sau, y theo Thoát Hoan sang Đại Việt lần thứ ba (1287) nhưng cũng không đạt dã tâm.
Kẻ thứ ba là Trần Kiện – hậu duệ của Trần Quốc Khang – đi theo Ích Tắc đầu hàng Toa Đô. Khi được đưa về Yên Kinh, đoàn quân bị thổ hào châu Ma Lục là Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh mai phục tập kích. Trần Kiện bị gia nô của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô hạ sát. Xác y bị Ích Tắc đem theo, lén chôn tại Khâu Ôn.
Ngoài ra còn có Lê Tắc – từng là mưu thần, sau khi hàng giặc đã chỉ lối cho binh tướng Mông – Nguyên thoát thân. Các thuộc hạ khác như Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên cũng theo Ích Tắc lưu vong nơi phương Bắc.
Đại thắng: Khí thiêng Đông A chấn động càn khôn
Đại chiến Mông Nguyên lần 2 kết thúc với thắng lợi hiển hách của quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo song song giữa Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và Hoàng đế Trần Nhân Tông. Hào khí Đông A từ đây vang vọng muôn phương.
Lần này, thế giặc hung hãn hơn trước. Nhà Nguyên sau khi diệt Tống đã không còn lá chắn phương Nam, trực tiếp đổ quân áp sát Đại Việt. Mặc cho áp lực binh hùng tướng mạnh, triều Trần vẫn kiên cường chống trả, đẩy lùi từng bước giặc thù.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Xác giặc nằm la liệt, máu chảy đỏ nước”. Lý Quán gom tàn binh chỉ còn lại chừng năm vạn trong số năm mươi vạn xuất chinh, cho thấy mức thiệt hại khủng khiếp của quân Nguyên.
Tháng Giêng năm Bính Tuất (1286), triều đình Trần ra lệnh tha cho năm vạn hàng binh, khắc chữ lên trán rồi phóng thích, cảnh cáo: “Nếu còn tái phạm, tất tru di!”. Lệnh này vừa là nhân đạo, vừa là mưu lược để dằn mặt giặc thù.
Dẫu vậy, theo nhà sử học Trần Xuân Sinh, con số 45 vạn quân Mông – Nguyên bị diệt có phần phóng đại. Hốt Tất Liệt sau đó vẫn đủ lực định khởi binh lần ba chỉ hai tháng sau chiến bại. Điều ấy cho thấy tổn thất thực tế khoảng 10 đến 20 vạn là hợp lý hơn, chủ yếu là chết trận hoặc bị bắt làm tù binh.
Kết luận
Cuộc kháng chiến Mông Nguyên lần thứ hai không chỉ là một chiến thắng quân sự hiển hách, mà còn là minh chứng hùng hồn cho sức sống mãnh liệt của dân tộc Đại Việt trước cường quyền bạo ngược. Dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của Trần Hưng Đạo và lòng đoàn kết son sắt của muôn dân, nước Nam đã một lần nữa khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm, hun đúc tinh thần “Nam quốc sơn hà” vững như bàn thạch.
Từ ải Chi Lăng tới bến Chương Dương, từ sông Đuống tới thành Thăng Long, mỗi trận địa là một bản hùng ca khắc vào sử sách. Kẻ xâm lược ngạo nghễ phải cúi đầu tháo chạy, còn Đại Việt – dẫu nhỏ bé về địa lý – lại lớn lao vô hạn trong ý chí và lòng quả cảm. Hào khí Đông A từ đó trở thành linh hồn của dân tộc, soi đường cho bao thế hệ giữ nước và dựng nước mai sau.