Cuộc kháng chiến Mông Nguyên lần 3: Bản anh hùng ca đẫm lửa

Kháng chiến Mông Nguyên lần 3 không chỉ là hồi kết của một thời kỳ binh đao, mà còn là lời tuyên ngôn bất diệt về khí phách Đại Việt: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư – Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”. Dưới sự trị quốc vững vàng của triều Trần, cùng trí dũng của Hưng Đạo Vương và lòng dân như nước lũ cuồn cuộn, dân tộc ta đã làm nên một chương oai hùng.

Bối cảnh lịch sử

Sau thất bại nặng nề của quân Nguyên trong chiến dịch 1285, Hốt Tất Liệt – hoàng đế nhà Nguyên – vẫn không hề từ bỏ ý đồ bành trướng Đại Việt. Ngay lập tức, ông tái khởi động kế hoạch xâm lăng, chuẩn bị một chiến dịch lớn hơn, quyết tâm “phục thù”. Vào ngày 21 tháng 8 năm 1285, Khu mật viện triều Nguyên đã trình lên Hốt Tất Liệt đề án chinh phạt lần nữa.

Giữa tháng 2 năm 1286, Hốt Tất Liệt truyền lệnh cho A Lý Hải Nha khảo sát phương lược đánh Đại Việt, đồng thời phê chuẩn danh sách các tướng lĩnh chủ chốt tham gia chiến dịch. Công tác điều quân và đóng tàu bắt đầu vào tháng 3 năm đó. Song do các cuộc nổi dậy rộng khắp miền Nam Trung Quốc, lệnh hoãn chiến dịch được ban hành vào tháng 6 năm 1286. Đến cuối năm, khi tình hình ổn định, công cuộc chuẩn bị tái khởi động.

Thành phần lực lượng và binh khí

Quân Nguyên

Quân xâm lược dưới quyền chỉ huy tối cao của Thoát Hoan, phó tướng là Áo Lỗ Xích (sau khi A Lý Hải Nha qua đời), tập hợp dàn tướng lĩnh từng tham gia chiến dịch trước như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Diệp Hắc Mê Thất, cùng nhiều danh tướng người Hán và thủ lĩnh cướp biển từng gia nhập nhà Nguyên.

Đội hình được bổ sung thêm hàng vạn quân Mông Cổ và người Hán từ các tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng; 1.000 quân cựu binh nhà Nam Tống; 6.000 quân Vân Nam; 15.000 người Lê từ Hải Nam; cùng các bộ tộc thiểu số Quảng Tây, tạo nên lực lượng hùng hậu theo nhiều nguồn ghi chép.

Quân Nguyên huy động đại binh thủy bộ

Quân Nguyên huy động đại binh thủy bộ, chuẩn bị xâm lược Đại Việt năm 1288.

Số lượng quân Nguyên theo các tài liệu Việt Nam và Trung Quốc dao động từ 17 vạn đến hơn 50 vạn người. Thủy quân được tăng cường đáng kể với hơn 700 chiến thuyền mới đóng và 120 chiến hạm Hải Nam dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi. Hạm đội tải lương gồm 100 tàu vận tải chở theo số lượng lương thực lên đến 17 vạn thạch, do Trương Văn Hổ phụ trách, nhằm bảo đảm hậu cần vững chắc, giảm bớt sự lệ thuộc vào tuyến đường bộ gian nan.

Đây là lần đầu tiên quân Nguyên tổ chức hạm đội chiến đấu mạnh mẽ với hàng vạn thủy quân tinh nhuệ, bao gồm các sắc binh người Lê và Tân Phụ, nhằm đánh bại thế trận thủy chiến của Đại Việt.

Hốt Tất Liệt đặc biệt căn dặn các tướng sĩ: “Không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà khinh thường.

Quân Trần

Phía Đại Việt, Trần Nhân Tông đứng đầu triều đình tiến hành tổng động viên toàn quốc. Quân đội chủ lực dưới sự điều hành của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có số quân ước lượng lên đến 32 vạn, bao gồm cả binh lực địa phương và dân phu phụ trợ.

Trần Nhân Tông ban hành đại xá thiên hạ, tha tội cho nhiều phạm nhân ngoại trừ những kẻ đã hàng phục quân Nguyên, khuyến khích tù binh tự nguyện gia nhập nghĩa quân để đền ơn tổ quốc.

Nhờ kinh nghiệm trận mạc phong phú sau hai lần đụng độ trước đó, Trần Quốc Tuấn tự tin tâu lên vua rằng: “Thế giặc năm nay dễ phá!” cho thấy khí thế và sự chuẩn bị chu đáo của Đại Việt trong lần kháng chiến cuối cùng này.

Diễn biến cuộc kháng chiến Mông Nguyên lần 3

Hai bên dàn quân

Ngày 3 tháng 9 âm lịch, Thoát Hoan chính thức phát binh từ đất Ngạc, tiến thẳng về phía nam với danh nghĩa đưa “An Nam quốc vương” Trần Ích Tắc trở về nước. Quân Nguyên chia thành ba mũi tiến công:

  • Mũi thứ nhất do Ái Lỗ chỉ huy, hành quân theo đường Vân Nam, tiến dọc hai con sông Thao và Lô, y hệt như hai lần xâm lược trước.
  • Mũi thứ hai – lực lượng chủ lực do Thoát Hoan cùng Trình Bằng Phi, Áo Lỗ Xích dẫn đầu, đưa Trần Ích Tắc qua biên giới đông bắc theo đường châu Khâm, châu Liêm.
  • Mũi thứ ba là thủy quân gồm 500 chiến thuyền do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy, theo sau có đoàn vận lương do Trương Văn Hổ đảm trách.

Phía Đại Việt, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đứng ra thống lĩnh các vương hầu phân quân khắp nơi. Ông cùng Nguyễn Khoái chỉ huy 3 vạn quân giữ Lạng Sơn; Lê Phụ Trần điều 3 vạn quân bảo vệ vùng Thanh – Nghệ; Trần Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn; bản thân Trần Quốc Tuấn đóng quân ở Quảng Yên.

Ngoài ra, Hưng Đạo Vương còn điều binh dày đặc dọc biên giới châu Tư Minh, chia quân giữ các đồn Sa, Từ, Trúc để ngăn cản bộ binh địch tràn vào, đồng thời cử một tướng khác bảo vệ vùng Bình Than.

Đụng độ tại biên giới quốc gia

Ngày 18 tháng 12 năm 1287, cánh quân chủ lực của Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích tập kết tại Tư Minh, rồi bước chân vào đất Đại Việt ngày 25 tháng 12.

Đến 29 tháng 12, chúng có mặt tại Lộc Châu (Lộc Bình, Lạng Sơn). Tại đây, Thoát Hoan chia quân thành hai mũi: một do Trình Bằng Phi và Bột Đa Cáp Đáp Nhĩ chỉ huy với 1 vạn quân người Hán tiến từ Vĩnh Bình đến Chi Lăng; mũi kia gồm phần còn lại tiến từ Lộc Bình đến Sơn Động, đồng thời để lại 2.500 quân giữ lương thực, vũ khí và trang bị.

Ngả quân bộ do Ái Lỗ, Á Thai và Mãng Cổ Đái cầm đầu tiến vào Đại Việt sớm hơn mũi chủ lực, ngày 11 tháng 12 đã có mặt tại Bạch Hạc.

Thủy quân dưới quyền Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp xuất phát từ Khâm Châu tiến về vùng biển Đông Bắc Đại Việt. Đến 17 tháng 12, lực lượng chiến đấu của Ô Mã Nhi tách khỏi đội vận tải, tiến vào cửa biển Vạn Ninh (Móng Cái), rồi len lỏi dọc bờ tiến về cửa sông Bạch Đằng và tiếp tục tiến sâu vào Vạn Kiếp.

Bản đồ kháng chiến chống Mông Nguyên lần 3 thời Trần

Bản đồ kháng chiến chống Mông Nguyên lần 3 thời Trần.

Ngay khi vừa bước chân vào đất Đại Việt, quân Nguyên lập tức giao tranh với quân ta. Ái Lỗ dẫn quân Vân Nam đối đầu với 4 vạn binh Trần Nhật Duật tại Bạch Hạc, giành thắng lợi vang dội, thu được nhiều thuyền địch, tiêu diệt Lê Thạch và Hà Anh.

Các mũi quân của Thoát Hoan vừa vượt sông biên giới thì Trình Bằng Phi đưa quân Hán tiến sâu vào Lạng Châu và Lão Thử (Chi Lăng). Theo Nguyên sử, mũi này thắng liền 17 trận liên tiếp, chiếm đóng các đồn Hãm Sa, Tư Trúc. Mũi còn lại có Thoát Hoan cùng vượt qua ải Khả Lý, đầu năm 1288 đóng quân ở kênh Mao La.

Thủy quân Nguyên không đi vòng đánh Thanh – Nghệ rồi đánh ngược như lần trước vì đã nhận thấy quân Trần cảnh giác cao độ. Thay vào đó, họ tiến thẳng về phía bắc để hội quân với Thoát Hoan. Tại Quảng Yên, Ô Mã Nhi cùng quân thủy giao tranh với tướng Trần Gia ở vụng Đa Mỗ (mũi Ngọc, Móng Cái). Trần Gia giành được một số thắng lợi nhỏ, đánh đắm vài thuyền lương nhưng cũng chịu thương vong nặng, cuối cùng phải rút lui.

Thấu hiểu nguy cơ thiếu lương thực, Thoát Hoan ra lệnh cánh quân đi cướp bóc lương thực Đại Việt về dùng.

Đến đầu tháng Chạp, quân Trần ở các đồn biên giới Lạng Sơn dần suy yếu, nhiều nơi phải rút lui hoặc bỏ đồn trước khi quân Nguyên kịp đến.

Quân Trần yếu thế, lại bị cướp bóc lương, buộc phải lui về Vạn Kiếp giữ gìn lực lượng. Dù Trần Gia thắng được một trận nhỏ với thủy quân Nguyên, nhưng Phàn Tiếp vẫn vượt sông Bạch Đằng tiến vào Bắc Giang. Trần Quốc Tuấn cố gắng bố trí quân chặn ở sông, nhưng không ngăn nổi. Phàn Tiếp hội quân với bộ binh Thoát Hoan.

Trận Vạn Kiếp và mặt trận tây bắc

Thoát Hoan chia quân chiếm đóng núi Phả Lại và núi Chí Linh (Hải Dương), xây dựng phòng tuyến vững chắc.

Trình Bằng Phi tiến công trại Phù Sơn, quân Trần lợi dụng tên độc gây thương vong lớn cho quân Nguyên, nhưng khi Bằng Phi được tiếp viện, quân Trần buộc phải rút lui.

Đầu năm 1288, hai cánh quân Thoát Hoan và Trình Bằng Phi hợp lực tại Vạn Kiếp. Trình Bằng Phi đã trải qua 17 trận đánh dọc từ Lộc Châu đến Vạn Kiếp, trong khi cánh quân Thoát Hoan chỉ gặp sự kháng cự yếu ớt. Quân Đại Việt tại Vạn Kiếp mỏng, đã rút về Thăng Long.

Thoát Hoan biến Vạn Kiếp thành cứ điểm quan trọng với hơn 2 vạn quân, dựng thành gỗ trên núi Chí Linh và Phả Lại, từ đó mở rộng tấn công về Thăng Long.

Tại mặt trận tây bắc, quân Ái Lỗ từ Vân Nam theo sông Thao và sông Lô tiến xuống, quân các chủ trại Tuyên Quang chống cự không nổi. Trần Nhật Duật đóng tại Bạch Hạc ngăn chặn quân Aruq, hai bên giao tranh ác liệt trong 18 trận, cả hai đều chịu tổn thất nặng. Hai tướng nhà Trần là Hà Anh và Lê Thạch bị bắt và bị giết. Cuối cùng, Trần Nhật Duật thất trận, Ái Lỗ tiến thẳng vào Thăng Long.

Trận Cao Lạng

Khi đạo quân chủ lực của Thoát Hoan cùng Trần Ích Tắc tiến về Thăng Long, lực lượng hậu quân do Lê Tắc và Lê An hộ tống con Trần Ích Tắc là Trần Dục mới 9 tuổi kéo theo sau.

Dù không gặp quân chủ lực nhà Trần, nhưng hậu quân này bị tướng Tày Nguyễn Thế Lộc phục kích tại cửa ải Nội Bàng, tổn thất nặng vẫn tiến qua biên giới. Nguyễn Thế Lộc vây chặt, Lê Tắc cùng Lê An chống cự yếu ớt, phải rút chạy theo hướng bắc. Lê An bế Trần Dục chạy chậm bị quân Trần truy sát, Lê Tắc quyết quay ngựa lại nhường ngựa tốt cho Lê An chạy trước, cuối cùng chỉ còn chưa đầy 100 người thoát về châu Tư Minh đúng dịp Tết Mậu Tý 1288.

Hậu quân Nguyên bị phục kích tại Nội Bàng

Hậu quân Nguyên bị phục kích tại Nội Bàng khi rút lui qua biên giới.

Lê Tắc cùng các tướng người Việt còn lại bày tiệc ăn mừng thoát chết. Ông tự ghi lại trong hồi ký: “Chật vật hiểm nghèo, muôn phần chắc chết. Chạy mấy trăm dặm từ nửa đêm đến tảng sáng đến châu, vọng bái cửa khuyết, mừng tết năm Mậu Tý.

Trận Thăng Long

Cuối tháng 1 năm 1288, quân Nguyên bắt đầu công kích Thăng Long. Mũi quân Vân Nam gặp đại quân Thoát Hoan bên bờ sông Hồng. Ngày 2 tháng 2, quân Nguyên mở đợt tấn công thành trì, nhưng quân Trần kiên cường cố thủ, liên tục bắn tên đạn ra ngoài.

Trần Quốc Tuấn cử Trần Cao mang thư xin giảng hòa nhiều lần, nhưng đêm đến thường cho quân rời trại bí mật chờ thời cơ.

Trận Vân Đồn – Bước ngoặt quyết định

Ô Mã Nhi cùng Phàn Tiếp được giao trọng trách dẫn đầu thủy quân, mở đường cho đoàn thuyền lương do Trương Văn Hổ chỉ huy, phía sau là Phí Củng Thìn. Sau khi đẩy lùi được quân Trần Gia, Ô Mã Nhi chủ quan cho rằng đối phương yếu thế, nên liều lĩnh tiến sâu vào đất liền để hội quân với Thoát Hoan, đồng thời truy sát vua Trần.

Trong khi đó, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư phụ trách phòng thủ đường biển, nhưng lại để cho quân Nguyên ung dung vượt qua. Ông bị Thượng hoàng Thánh Tông nghiêm khắc thẩm vấn, song xin khất vài ngày để chuộc tội.

Đầu năm 1288, khi đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đến Vân Đồn, quân Trần dưới sự chỉ huy của Khánh Dư bất ngờ tập kích dữ dội. Quân Nguyên không có lực lượng chủ lực bảo vệ, thuyền của Văn Hổ bị tiêu diệt gần như toàn bộ. Ông cố gắng thoát thân vào đất liền nhưng bị quân Trần chặn đánh quyết liệt tại Lục Thủy. Trương Văn Hổ thất bại nặng nề, phải đổ thóc xuống biển để tránh lọt vào tay địch rồi tháo chạy về Quỳnh châu.

Sông Mang, nơi Trần Khánh Dư tập kích đoàn thuyền Trương Văn Hổ

Vị trí giả định sông Mang – nơi Trần Khánh Dư tập kích đoàn thuyền Trương Văn Hổ.

Phí Củng Thìn kéo theo đoàn thuyền lương khác đến Huệ châu thì gặp bão, trôi dạt về Quỳnh châu. Đoàn thuyền của Từ Khánh lại lạc đến Chiêm Thành rồi quay về Quảng Đông. Toàn bộ thuyền lương của quân Nguyên coi như mất sạch.

Theo sử Nguyên, quân Nguyên trong trận này chết 220 người, mất 11 thuyền và hơn 14.300 thạch lương thực. Nhưng con số này có lẽ quá khiêm tốn, bởi Trương Văn Hổ chỉ thoát nạn trên một chiếc thuyền duy nhất. Chiến thắng vang dội tại Vân Đồn – Lục Thủy đã làm thay đổi hoàn toàn cục diện kháng chiến, khi tuyến lương thực quan trọng của quân Nguyên bị cắt đứt, đẩy họ vào thế bị động trầm trọng.

Sách Cương mục ghi rõ: “Quân Nguyên từ đó thiếu thốn lương ăn, tinh thần sa sút, binh sĩ đều muốn quay về, không còn lòng chiến đấu. Năm đó dân ta bị hại ít hơn năm trước, công lao phần lớn thuộc về Khánh Dư.

Thoát Hoan rút về Vạn Kiếp

Khi Thoát Hoan còn vây Thăng Long, các tướng Nguyên ở Vạn Kiếp tiếp tục củng cố căn cứ, thiết lập hành lang liên lạc với Trung Quốc. Tuy nhiên, các đồn trại quanh vùng núi liên tục bị quân Trần đánh phá, cô lập.

Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đi đón đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ nhưng không thấy đoàn thuyền đâu, còn bị tập kích ác liệt ở cửa Văn Úc và vùng biển Tháp Sơn, chịu tổn thất nặng nề rồi buộc phải quay về Vạn Kiếp, dù trên đường còn cướp được 4 vạn thạch gạo. Các đơn vị khác cũng tranh thủ cướp lương thực của quân Trần, nhưng số lượng lương thực chiếm được vẫn không đủ nuôi quân đông đảo trong thời gian dài.

Không có lương thực, Thoát Hoan bối rối, trong khi quân Đại Việt phản công quyết liệt, kiểm soát Hải Dương – Hải Phòng, gây nguy cơ cắt đứt đường về Vạn Kiếp. Cuối cùng, Thoát Hoan quyết định rút quân khỏi Thăng Long, sai Abaci mở đường cho quân bộ rút lui.

Đến cuối tháng 3/1288, quân Nguyên co cụm ở Vạn Kiếp, lương thực khan hiếm, binh lính bị dịch bệnh do thời tiết nóng bức, tinh thần suy sụp. Sách Nguyên chép rằng, dịch bệnh nhiều đến mức không thể tiếp tục tiến công, buộc phải rút lui.

Vua Trần vận dụng kế trá hàng, phái Hưng Ninh vương Trần Tung đến hẹn “xin hàng” để đánh lừa Thoát Hoan. Quân Nguyên chủ quan án binh bất động, chờ đợi. Đêm đến, quân Trần bất ngờ tấn công, phá tan các trại lính. Thoát Hoan tức giận ra lệnh đốt thành, muốn tử chiến đến cùng, song các tướng dưới quyền khuyên ngăn, ông đành hủy lệnh.

Quân Nguyên co cụm phòng thủ trong thành gỗ tại Vạn Kiếp nhưng bị quân Trần tập kích liên tục, lương thực ngày một cạn kiệt. Tướng lĩnh quân Nguyên bàn bạc rằng, vùng đất Giao Chỉ không thể giữ được lâu, thiếu lương thực và kho tiếp tế, thời tiết nóng bức khiến binh lính mỏi mệt, không thể duy trì chiến đấu. Cuối cùng Thoát Hoan quyết định rút quân khỏi Đại Việt, chia làm hai hướng: thủy quân do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy, bộ binh do chính Thoát Hoan dẫn đầu.

Trận Bạch Đằng – Đại thắng vang dội

Để bảo vệ thủy quân rút lui, Thoát Hoan phái Trình Bằng Phi và Đạt Truật đi hộ tống, nhưng họ bị quân Trần chặn đánh, buộc phải quay về Vạn Kiếp cùng đại quân bộ. Đoàn thuyền của Ô Mã Nhi không có bộ binh bảo vệ liên tục bị tấn công, mãi đến ngày 8 tháng 4 năm 1288 mới tiến tới Trúc Động định vào sông Giá. Tuy nhiên, quân Trần đã chặn đứng cửa sông, buộc Ô Mã Nhi phải chuyển hướng vào sông Bạch Đằng.

Tại đây, quân Đại Việt bố trí trận địa cọc ngầm, bộ binh mai phục tại Tràng Kênh và rừng bên bờ tả ngạn sông để đánh úp hai sườn quân Nguyên. Thủy quân Đại Việt còn ẩn nấp trên các nhánh sông khác chờ thời cơ.

Cọc gỗ Bạch Đằng

Cọc gỗ Bạch Đằng – vũ khí diệt thủy quân Nguyên, trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

Sáng ngày 9 tháng 4, quân Nguyên tiến vào sông Bạch Đằng và lập tức bị quân Trần vây đánh dữ dội. Đích thân vua Trần và Hưng Đạo Đại Vương cầm quân chỉ huy trận đánh.

Tướng Nguyễn Khoái chỉ huy đội cấm binh tinh nhuệ Thánh Dực, đánh thẳng vào đội hình chính diện quân Nguyên. Đội thuyền Nguyên giả vờ thua để dụ địch, rồi quay lại chặn ngang đường thoát ra biển. Từ các nhánh sông, thủy quân Trần đồng loạt xuất kích, đồng thời đốt thuyền cháy lao vào quân Nguyên. Mũi tên và hỏa tiễn liên tục bắn ra từ hai bờ.

Quân Nguyên chống trả quyết liệt, tướng Phàn Tiếp dẫn quân đổ bộ chiếm núi Tràng Kênh, nhưng bị phục binh vây chặt, đánh bật xuống sông. Thủy triều rút làm nhiều thuyền mắc cọc nhọn hư hại, đoàn thuyền rối loạn, không thể thoát ra biển.

Đến chiều, thủy quân Nguyên gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Tướng Trương Ngọc tử trận, Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ bị bắt sống. Phàn Tiếp bị thương nhảy xuống nước, bị quân Trần bắt sống cùng nhiều tướng lĩnh khác. Hơn 60.000 quân Nguyên chết hoặc bị bắt, hàng trăm tàu thuyền chìm, hơn 400 chiến thuyền lọt vào tay quân Trần.

Ô Mã Nhi bị giải đến thuyền ngự của Thượng hoàng Trần Thánh Tông, người đã sai người rót rượu tiếp đãi ông một cách trang trọng.

Một số sử sách nhầm lẫn tên gọi các tướng bị bắt, thực chất chỉ có một người là hoàng thân Tích Lệ Cơ – do chữ “vương” và “ngọc” dễ gây nhầm lẫn.

Trận Lạng Sơn

Ngày 8 tháng 4 năm 1288, đội quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy từ Vạn Kiếp rầm rập tiến lên phía Lạng Sơn. Abaci dẫn quân kỵ mã mở đường phía trước, trong khi Siktur được lệnh chia một cánh theo hướng Tây, băng qua Chi Lăng. Song, khi đến Hãm Nê, cánh quân này bất ngờ bị quân Đại Việt chặn đánh quyết liệt, buộc phải rút lui nhập vào đại quân của Thoát Hoan.

Đến ngày 11 tháng 4, đoàn quân Nguyên tiến đến cửa Nội Bàng (nay thuộc khu vực thị trấn Chũ và xã Bình Nội, Bắc Giang), thì rơi vào trận địa mai phục hiểm hóc của quân Trần. Quân Nguyên dốc sức chiến đấu, trong hoàn cảnh vô cùng nguy cấp, Daraci cùng Lưu Thế Anh đã liều mình cầm cự, mở đường máu để đại quân thoát khỏi vòng vây.

Sau khi vượt qua cửa Nội Bàng, Thoát Hoan nhận được tin tình báo rằng quân Đại Việt “chia làm hơn 30 vạn binh sĩ, án ngữ cửa quan Nữ Nhi cùng vùng núi Khâu Cấp, kéo dài hơn trăm dặm chặn đường tiến quân“. Con số 30 vạn này nhiều khả năng là chiêu bài đánh lừa trinh sát Nguyên, bởi lực lượng chủ lực Đại Việt đang tập trung đánh thủy quân trên biển, còn biên giới phía Bắc chỉ có vài vạn quân thủ hộ.

Thất thế, quân Nguyên buộc phải đổi hướng, rẽ qua Đơn Kỷ rồi tiến về Lộc Châu, tuy nhiên trên đường đi vẫn bị quân Trần tập kích không ngừng. Sử chép rằng lúc đó “quân ta đã đói khát, mệt mỏi, tướng sĩ nhìn nhau thất sắc“, nhưng vẫn quyết “cố xông lên đánh, dù phải buộc vết thương mà chiến đấu“.

A Bát Xích, một tướng lĩnh chủ chốt, trúng tên độc, đầu cổ sưng vù và qua đời trên đường rút lui. Mãi đến ngày 19 tháng 4 năm 1288, quân Nguyên mới thoát khỏi vùng biên giới, trở về tới Tư Minh. Ái Lỗ đem binh về Vân Nam, Áo Lỗ Xích chỉ huy tàn binh rút về phía Bắc. Cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba của Nguyên Mông chính thức khép lại trong thất bại.

Quân Nguyên tháo chạy khỏi Đại Việt

Quân Nguyên tháo chạy khỏi Đại Việt sau thất bại toàn diện năm 1288.

Số phận các tướng Nguyên sau trận chiến

Thoát Hoan cùng Trình Bằng Phi may mắn chạy thoát về nước, nhưng không lâu sau, Ái Lỗ mắc cảm lị mà qua đời (năm 1288).

Những viên tướng người Mông bị bắt giữ đều được tha về, trong khi các đầu mục người Hán từng đầu quân cho Mông Cổ nhưng sau đó bỏ hàng theo Đại Việt đều được nhà Trần dung thứ, ban cấp đất đai để sinh sống.

Riêng trường hợp Ô Mã Nhi, sử Việt ghi lại một câu chuyện đầy ám ảnh: do Ô Mã Nhi khỏe mạnh, dũng mãnh nhưng tàn bạo, đã sát hại nhiều người Việt và phá hủy lăng mộ vua Trần, Trần Quốc Tuấn quyết định trừ hậu họa bằng cách mưu sát. Ông cấp thuyền cho Ô Mã Nhi trở về, nhưng sai người (theo một số thuyết là Yết Kiêu) làm phu chèo thuyền, nhân lúc đêm tối làm thủng đáy thuyền khiến Ô Mã Nhi đuối nước chết chìm. Trần Nhân Tông còn gửi thư cho Hốt Tất Liệt báo cáo rằng thuyền bị rò rỉ nên đắm, khiến nhà Nguyên không dám truy cứu.

Sử sách Nguyên còn lưu lại bức thư của vua Nhân Tông:

“Tham chính Ô Mã Nhi đã trở về theo kỳ hạn. Không may đêm đến thuyền bị rò rỉ, Ô Mã Nhi thân hình to lớn, khó cứu vớt nên đành chết chìm; người chở thuyền và thê thiếp cũng chết theo, chỉ có một vài người may mắn thoát nạn…”

Tuy nhiên, một số học giả cho rằng Ô Mã Nhi đã bị giết chết trong trận Bạch Đằng và câu chuyện trên là do sử Nguyên dựng lên để giảm căng thẳng ngoại giao với nhà Trần. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo từng viết:

“Sông Bạch Đằng giết toi Ô Mã”.

Vụ ám sát Ô Mã Nhi từng bị các sử gia như Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ phê phán là “thất tín”, trong khi Trần Trọng Kim đồng thuận với vua Tự Đức gọi đó là “bất nhân phi nghĩa”. Tuy nhiên, nhiều nhà sử học hiện đại Việt Nam nhìn nhận đây là sự trả giá đích đáng của Ô Mã Nhi cho những tội ác với dân tộc. Lê Văn Siêu còn nhấn mạnh rằng, nếu so sánh với cách Nguyễn Ánh (vua Gia Long) xử lý hài cốt Quang Trung, việc nhà Trần xử lý tướng giặc như Ô Mã Nhi không phải là điều đáng lên án, bởi ông từng gây ra bao đau thương cho dân Việt.

Phàn Tiếp, một tướng Nguyên khác, vì lo âu mà thành bệnh tử vong tại Đại Việt. Trần Nhân Tông đã cho hỏa táng và cấp người, ngựa đưa xác về nước. Có giả thuyết cho rằng Phàn Tiếp cũng chịu số phận bị giết lén như Ô Mã Nhi.

Hoàng thân Tích Lệ Cơ cùng một số tướng Mông Cổ khác được hồi hương trở về nước vào tháng 2 năm 1289, chấm dứt chuỗi ngày chiến tranh đầy gian nan giữa hai bên.

Kết quả cuộc xâm lược thất bại của nhà Nguyên

Kế hoạch xâm lược Đại Việt của triều Nguyên lại một lần nữa bị dập tắt trong thất bại ê chề. Những tướng lĩnh tài ba, kỳ cựu như A Bát Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp lần lượt ngã xuống, để lại dấu ấn bi tráng trên chiến trường. Hàng loạt chiến thuyền của quân Nguyên bị đánh chìm hoặc rơi vào tay quân Đại Việt, khiến lực lượng thủy quân gần như bị tiêu diệt toàn bộ, số thương vong của quân Nguyên là vô cùng nặng nề.

Riêng cánh quân Vân Nam do Ái Lỗ chỉ huy, sử sách không ghi rõ kết cục cuối cùng. Nhà sử học Trần Xuân Sinh suy đoán rằng, sau khi Thoát Hoan rút khỏi Vạn Kiếp, đạo quân này theo dòng sông Hồng lùi về Vân Nam. Trong Nguyên sử chỉ ghi vỏn vẹn một câu: “Thoát Hoan lệnh cho Ái Lỗ rút về Vân Nam”.

Tin tức thất bại truyền về kinh đô, vua Nguyên Hốt Tất Liệt tức giận đến mức không kiểm soát được cảm xúc, ra lệnh giam giữ Thoát Hoan tại đất Dương Châu, suốt đời không được phép trở lại triều đình.

Chiến thắng Bạch Đằng 1288

Chiến thắng Bạch Đằng 1288 – kết thúc âm mưu xâm lược của nhà Nguyên.

Ngoại giao sau chiến tranh

Dù đã đánh bại quân Nguyên, Đại Việt cũng chịu tổn thất không nhỏ với nhiều tướng sĩ hy sinh. Triều đình nhà Trần nhanh chóng hướng tới hòa bình, cố gắng xoa dịu căng thẳng để tránh đổ máu tiếp. Chỉ một tháng sau, sứ giả Đại Việt đã được phái sang nước Nguyên cầu hòa.

Tháng 5 năm 1288, sứ bộ do Nguyễn Đức Vinh và Đoàn Khải Khung dẫn đầu đem cống phẩm và biểu “tạ tội” sang Nguyên. Tuy nhiên, đúng lúc Hốt Tất Liệt đang uất ức, sứ giả Nguyễn Đức Vinh bị giam lỏng, không cho về nước. Đến mùa đông năm đó, sứ bộ thứ hai do Đỗ Thiên Hư mang theo tù binh Mông Cổ, trong đó có quý tộc Tích Lệ Cơ, đến Nguyên để trả lại.

Ngày 21/3/1288, sứ bộ Nguyên do Lưu Đình Trực, Lý Tư Diễn tới Đại Việt. Triều đình Trần đón tiếp trang trọng, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đích thân ra nghênh đón và đãi yến tại điện Tập Hiển. Chiếu thư của vua Nguyên đòi vua Trần sang chầu và thả hết tù binh Nguyên bị bắt.

Vua Trần từ chối, lấy cớ tuổi cao không thể đi xa. Về phần tù binh, triều đình áp dụng kế sách của Hưng Đạo vương: công khai cho Nội tư gia Hoàng Tá Thốn đưa Ô Mã Nhi về nước, nhưng bí mật sai thợ lặn phá hủy thuyền giữa biển, khiến Ô Mã Nhi chết đuối giả như một tai nạn. Cùng lúc, đại phu Đàm Minh và Chu Anh Chủng theo sứ bộ sang Nguyên giải trình với Hốt Tất Liệt. Dù nghi ngờ, triều Nguyên không tìm được lý do để bắt bẻ.

Kế hoạch chinh phạt lần thứ tư

Sau thất bại liên tiếp, triều Nguyên quyết định chuyển hướng đánh thẳng vào vùng Tây Bắc Đại Việt, nơi kỵ binh phát huy thế mạnh, tránh thế mạnh thủy quân của Đại Việt.

Ngày 10/3/1289, Lưu Đức Lộc, quản quân Thành Đô, được phong làm Đô nguyên soái cùng 1 vạn quân Tứ Xuyên, được giao nhiệm vụ chiêu dụ các bộ lạc vùng tây nam để chuẩn bị cho cuộc tiến công. Dự tính mở Soái phủ và tập trung lực lượng chuẩn bị mở mặt trận mới.

Tuy nhiên, kế hoạch mới nhanh chóng vấp phải trở ngại nghiêm trọng. Nội bộ nhà Nguyên dậy sóng với hàng loạt cuộc nổi dậy ở các tỉnh miền nam do nạn áp bức, bóc lột khiến dân chúng bức xúc. Quân nổi loạn như Hoàng Hoa ở Phúc Kiến, Đổng Hiền Cử ở Quảng Đông, Dương Trấn Đông, Liễu Thế Anh ở Chiết Giang, Chung Minh Lượng ở Tuần Châu… khiến triều Nguyên phải dồn quân đi dẹp loạn, gác lại kế hoạch đánh Đại Việt.

Ở phía bắc, đế chế Mông Cổ cũng bất ổn. Các vương tôn nổi dậy chống lại Hốt Tất Liệt. Năm 1287, vương tôn Nãi Nhan khởi binh, Hốt Tất Liệt phải thân chinh dẹp loạn. Đồng thời, Hãn quốc Sát Hợp Đài liên tiếp gây chiến, làm suy yếu cả hai phe. Đến năm 1289, Hốt Tất Liệt lại phải ra mặt trận phía bắc, làm cho cuộc chiến tranh lan rộng, kéo dài nhiều năm.

Tang lễ Thượng hoàng và sự chấm dứt kế hoạch xâm lược

Ngày 2/7/1290, Thượng hoàng Trần Thánh Tông qua đời. Nhà Nguyên định nhân lúc Đại Việt tang tóc mà gây hấn, nhưng Thừa tướng Hoàn Trạch cùng Bình chương Bất Hốt Mộc can ngăn. Cuối cùng, Hốt Tất Liệt phải dừng kế hoạch nam chinh, lùi binh.

Năm 1293, Hốt Tất Liệt lại nung nấu ý định chinh phạt, sai Lưu Quốc Kiệt và nhiều tướng thân cận chuẩn bị lực lượng. Quân Nguyên huy động 56.570 quân, hàng vạn thạch lương thực, vũ khí và 1.000 chiến thuyền tập trung ở Tĩnh Giang, chuẩn bị tiến đánh.

Lấy cớ dẹp loạn thủ lĩnh Hoàng Thánh Hứa ở Cao Bằng, triều Nguyên tập trung quân đội nhằm che giấu ý đồ thực sự. Tuy nhiên, khi mọi thứ còn đang trong giai đoạn chuẩn bị, ngày 18/2/1294, Hốt Tất Liệt đột ngột băng hà. Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn thù hằn Đại Việt, ra lệnh bãi binh, chấm dứt âm mưu xâm lược.

Định công tôn vinh những người có công

Tháng 4 âm lịch năm 1289, Trần Nhân Tông tổ chức xét công thưởng cho các tướng sĩ tham gia kháng chiến chống Nguyên. Trần Quốc Tuấn được phong “đại vương”, Trần Quốc Nghiễn làm Khai quốc công, Trần Quốc Tảng làm Tiết độ sứ. Đỗ Khắc Chung được ban họ Trần, Nguyễn Khoái phong Liệt hầu cùng đất đai, Phạm Ngũ Lão được phong Dực Thánh quân. Nhiều tù trưởng người dân tộc như Lương Uất, Hà Tất Năng cũng được phong tước.

Song, Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện dù công lao to lớn nhưng không được thưởng vì trái lệnh vua. Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi, dù lập đại công nhưng bị phạt tội bất kính vì không trình vua mà trình Thượng hoàng.

Triều đình còn vẽ chân dung và ghi công trạng những người có chiến công nổi bật trong sách Trùng Hưng Thực Lục. Tuy nhiên, phần thưởng nhiều người cho là còn khiêm tốn. Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã từng dụ rằng:

“Các khanh nếu biết chắc giặc Hồ không còn manh nha trở lại thì hãy cho trẫm biết, trẫm sẽ phong thưởng đến cùng. Nếu không mà vội vàng thưởng thì rồi sau nếu giặc Hồ tái xuất, các khanh lại lập công thì lấy gì mà đãi ngộ?”