Mạc Đăng Dung và thời kỳ tự chủ trong lịch sử Việt Nam
Mạc Đăng Dung, nhân vật gây tranh cãi nhưng đầy quyền lực đã viết nên một chương sử đáng nhớ trong thời kỳ tự chủ của Việt Nam. Làm thế nào từ một người xuất thân bình dị, ông đã vươn lên để trở thành người đứng đầu triều đại nhà Mạc? Hành trình từ làng Cổ Trai đến ngôi vị cao nhất đã diễn ra như thế nào? Hãy cùng khám phá những bí ẩn và dấu ấn lịch sử mà ông để lại trong thời kỳ đầy biến động này.
Mạc Đăng Dung là ai?
Mạc Đăng Dung (1527-1530), là một nhân vật lịch sử nổi tiếng trong triều đại phong kiến Việt Nam. Ban đầu ông là một võ tướng trong quân đội nhà Lê. Sau nhờ tài năng và sức mạnh, Mạc Đăng Dung nhanh chóng thăng tiến trong quân ngũ và trở thành một tướng lĩnh có uy quyền.
Tranh minh họa Mạc Đăng Dung
Năm 1527, lợi dụng sự suy yếu của triều đình nhà Lê, Mạc Đăng Dung lật đổ vua Lê Cung Hoàng và lên ngôi, lập ra nhà Mạc, đánh dấu sự khởi đầu của một triều đại mới.
Dưới sự cai trị của ông, đất nước trải qua nhiều cải cách nhằm củng cố quyền lực và bảo vệ biên cương. Tuy nhiên, việc lật đổ nhà Lê khiến ông bị một số sử gia coi là kẻ chiếm ngôi, dẫn đến nhiều cuộc chiến tranh và xung đột nội bộ kéo dài.
Tiểu sử Mạc Đăng Dung
Mạc Đăng Dung sinh tại làng Cổ Trai – huyện Nghi Dương (nay thuộc Hải Phòng). Cụ tổ bảy đời của ông là Mạc Đĩnh Chi, quê ở làng Đông Cao – huyện Bình Hà, nay là làng Long Động – huyện Chí Linh – Hải Dương.
Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng Nguyên trong khoa Giáp Thìn (1304) thời vua Trần Anh Tông và từng giữ các chức vụ cao như Nhập nội hành khiển Thượng thư môn hạ Tả bộc xạ, kiêm Trung thư lệnh, tri quân dân trọng sự. Ông nổi danh là người thanh liêm và được tôn kính không chỉ trong nước mà còn cả ở Trung Quốc.
Mạc Đĩnh Chi có con là ông Dao, giữ chức Ty hình viên đại phu. Ông Dao có bốn người con trai là Địch, Thuấn, Thúy và Viễn đều là những người có tài. Đến cuối thời nhà Hồ, cả bốn người cùng con cháu đã ra hàng nhà Minh, góp phần hỗ trợ quân Minh vượt sông và chiếm thành Đông Kinh.
Thúy, người con trai của ông Dao, được phong chức Giao Chỉ bố chánh ty tham chánh và sau này tử trận ở Lạng Sơn do trúng tên độc. Con trai Thúy là Tung, di cư về làng Lang Khê – huyện Thanh Hà. Vào thời Lê Thái Tổ, Tung không ra làm quan vì sợ bị xử lý do từng phục vụ nhà Minh. Tung có con là Bình sau chuyển đến làng Cổ Trai – nơi Mạc Đăng Dung sinh ra.
Mạc Đăng Dung sinh giờ Ngọ, ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão (22/12/1483), đời vua Lê Thánh Tông. Thuở nhỏ, ông làm nghề đánh cá, nhưng nhờ sức khỏe vượt trội, ông đã thi đỗ Đô lực sĩ và được thăng tiến nhanh chóng, trở thành Vũ Xuyên bá và sau này là Thái sư Nhân quốc công trong triều Lê. Ông xây dựng quyền lực, chiêu tập nhân tâm và dần ép vua Lê Cung Hoàng nhường ngôi, sau đó lên ngôi vua vào năm 1527, mở đầu cho triều Mạc.
Sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung đóng đô tại thành Thăng Long, đặt Dương Kinh làm trung tâm và xây dựng nhiều công trình lớn tại Cổ Trai. Ông truy tôn tổ tiên mình từ Mạc Đĩnh Chi đến cha là Mạc Hịch làm đế và hậu. Ông lập con trai là Mạc Đăng Doanh làm Thái tử và phong chức cho các em và hoạn quan thân cận.
Tuy nhiên, việc lật đổ nhà Lê khiến lòng dân dao động. Mạc Đăng Dung cố gắng củng cố lòng trung thành bằng cách noi theo chế độ nhà Lê, cúng tế và vỗ về các công thần cũ. Ông tìm kiếm con cháu của các công thần triều Lê để mời làm quan nhưng phần lớn họ đã trốn tránh hoặc đi lánh nạn.
Trong thời gian trị vì, Mạc Đăng Dung đã tổ chức cải cách về binh chế, điền chế và đúc tiền nhưng gặp nhiều khó khăn. Ông cũng đối diện với việc hai anh em Trịnh Ngung và Trịnh Ngang tố cáo nhà Mạc cướp ngôi, nhưng nhờ đút lót cho các quan nhà Minh, tình hình được kiểm soát.
Nguyễn Kim, một trung thần nhà Lê, đã tập hợp lực lượng tại Ai Lao và chuẩn bị cho việc khôi phục nhà Lê. Trong khi đó, nhà Minh nhận được tin tức về con cháu vua Lê Chiêu Tông trốn sang Ai Lao, cho thấy tình hình ngày càng phức tạp và đầy căng thẳng giữa nhà Mạc và lực lượng trung thành với nhà Lê.
Vào tháng 12 năm Đại Chính thứ 3 (26/12/1532-24/1/1533), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi rằng: “Cựu thần nhà Lê là An Thanh hầu Nguyễn Kim đã tôn lập con vua Chiêu Tông là Ninh ở Ai Lao.” Điều này cho thấy Nguyễn Kim đã muốn sử dụng danh nghĩa con vua Chiêu Tông để nhờ sự hỗ trợ của Ai Lao trong việc phục quốc.
Minh Thực Lục ghi nhận sự kiện Lão Qua gửi thư cho triều đình nhà Minh như sau:
“Ngày 28 tháng 3 năm Gia Tĩnh thứ 9 (25/4/1530), quân dân phủ Nguyên Giang nhận được văn thư bằng chữ Miến của Tuyên ủy sứ Lão Qua Chiêu Lãm Chương, thông báo: ‘Con trưởng Quang Thiệu của Giao Chỉ, đáng được kế vị, bị chú đuổi lưu vong. Lão Qua muốn dùng voi ngựa để đưa trở về nước’.
Thủ thần tâu: ‘Chiêu Lãm Chương có lẽ lo sợ bị kết tội dung nạp lưu vong, nên xin triều đình hỗ trợ. Tuy nhiên, nếu [con] Quang Thiệu ở đó, Việt Nam sẽ nghi ngờ và nếu đưa về có thể gây hấn, vì vậy để [con] Quang Thiệu tự về là tốt nhất.’
Bộ Binh tâu: ‘Quan biên giới không được phép giao thiệp riêng, nếu không kiểm soát sớm sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. Xin ban chiếu trách vấn Chiêu Lãm Chương, yêu cầu không dung nạp và ra lệnh cho [con] Quang Thiệu trở về nước. Từ nay, phải giữ biên cương và tránh dung nạp những kẻ lưu vong.’ Thiên tử phê chuẩn đề nghị này.”
Dưới triều Mạc, việc tổ chức thi Hội vẫn theo đúng quy định triều Lê. Các vị đỗ tiến sĩ bao gồm Đỗ Tống, Nguyễn Hãng, Nguyễn Văn Huy và những người khác.
Đến tháng 12 năm 1529 (31/12/1529 – 28/01/1530), sau 3 năm trị vì Mạc Đăng Dung truyền ngôi cho con trai trưởng là Mạc Đăng Doanh, xưng là Thái Thượng Hoàng và lui về Cổ Trai. Tuy nhiên, ông vẫn nắm quyền kiểm soát đất nước cho đến khi mất, được truy tôn là Mạc Thái Tổ. Mạc Đăng Doanh ở ngôi 11 năm và được truy tôn là Mạc Thái Tông.
Tượng Thái Tổ Mạc Đăng Dung
Vua Mạc Đăng Dung là một nhân vật lịch sử đầy tranh cãi nhưng không thể phủ nhận vai trò quan trọng của ông trong thời kỳ tự chủ của Việt Nam. Dù gặp nhiều thách thức và chỉ trích, ông đã để lại dấu ấn sâu sắc trong việc định hình chính trị và xã hội Việt Nam. Những cải cách và sự lãnh đạo của ông mở đầu một giai đoạn mới, góp phần tạo nên một chương sử đầy ý nghĩa của dân tộc.