Mạc Đăng Dung cướp ngôi tự xưng hoàng đế
Vào thế kỷ 16, sự kiện Mạc Đăng Dung cướp ngôi đã trở thành bước ngoặt chấn động trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Từ một võ tướng quyền lực, Mạc Đăng Dung bắt vua Lê nhường ngôi, tự xưng hoàng đế, mở ra thời kỳ trị vì của triều Mạc. Hành động này không chỉ gây xáo trộn chính trị mà còn khơi mào cho những tranh đấu, xung đột quyền lực đầy biến động sau đó. Cùng nhìn lại câu chuyện tham vọng và hệ quả của một thời kỳ lịch sử không thể lãng quên.
Tình tiết Mạc Đăng Dung cướp ngôi và sự thật phía sau
Cung Hoàng đế, tên húy là Xuân, là cháu bốn đời của Vua Thánh Tông và là cháu nội của Kiến Vương Tân, con thứ của Cẩm Giang Vương Sùng, đồng thời là em ruột cùng mẹ với Vua Chiêu Tông. Ông sinh ngày 26 tháng 7 năm Đoan Khánh thứ 3 (02/09/1507) và trị vì trong 5 năm. Đến ngày 15 tháng 6 năm Thống Nguyên thứ 6 (12/07/1527), ông bị Mạc Đăng Dung ép nhường ngôi, sau đó vài tháng bị giết và được chôn tại lăng Hoa Dương.
Ban đầu, Cung Hoàng đế lên ngôi với lý do anh ruột là Vua Chiêu Tông bị kẻ gian bắt giữ và đưa đi nơi khác. Ông đặt niên hiệu Thống Nguyên.
Ngày 10 tháng 8 năm Thống Nguyên thứ nhất (30/08/1522), Mạc Đăng Dung nhận thấy tình hình tại kinh thành không an toàn nên đưa vua đến Hồng Thị và thiết lập hành điện tại Cẩm Giàng – Hải Dương, đồng thời chuyển tiền bạc và vàng từ kho trong thành về đây.
Đến ngày 16 (05/09/1522), Vua Chiêu Tông trở về kinh đô và ngự tại hành điện Thụy Quang để gặp gỡ các quan lại, nhận được sự hưởng ứng từ nhiều vùng. Các quan như Lâm Xuyên bá Đàm Thận Huy và Phó đô tướng Phúc Sơn hầu Hà Phi Chuẩn nhận chiếu mật để trở về dấy binh ở Bắc Giang. Cùng với họ, nhiều quan chức khác như Vương Đàm hầu Nguyễn Vĩnh, Hà Lý hầu Lê Quảng đã đến yết kiến. Ninh Xuyên hầu Lê Đình Tú cũng tập hợp lực lượng để trấn giữ các vị trí chiến lược.
Tranh minh họa Mạc Đăng Dung
Tuy nhiên, sau các trận chiến, Đình Tú bị Mạc Đăng Dung đánh bại và bắt giữ, rồi bị giải về hành điện tại Cẩm Giàng, nơi ông bị xử tử. Vua Chiêu Tông tổ chức tấn công ở nhiều khu vực như Gia Lâm, Văn Giang, Đường Hào nhưng sau nhiều tháng chiến đấu, các đội quân này thất bại.
Trịnh Tuy được lệnh triệu tập từ Thanh Hóa nhưng chần chừ không đến và khiến quân lực nhà Lê bị yếu thế. Mạc Đăng Dung chia quân đánh chiếm các khu vực và cuối cùng vượt qua bến Đông Hà, khiến Vua Chiêu Tông phải rời khỏi hành điện Thụy Quang và lánh đến đình xã Nhân Mục. Trong khi đó, dân chúng dâng cháo gạo và các quan lại bắt đầu tập hợp lại để chuẩn bị chống cự tiếp.
Ngày 20 tháng 9 (09/10/1522), Vua Chiêu Tông lại dẫn quân trở về kinh đô, đóng tại phía tây kinh thành thuộc xã Yên Quyết Thượng – huyện Từ Liêm; thiết lập hành điện để triều kiến và dựng nhà Thái Miếu ở phía đông thành.
Tháng 10 (19/10 đến 17/11/1522), Trịnh Tuy dẫn theo quân từ ba phủ của Thanh Hóa cùng binh lính từ các xứ, tổng cộng hơn 1 vạn người, đến hộ giá rồi sau đó rút về doanh trại của mình, giao thuộc tướng Nguyễn Bá Kỷ vào hầu vua. Phạm Điền, lo ngại Kỷ tranh quyền nên đã tấu vua chém Kỷ và gửi đầu tới dinh của Trịnh Tuy, khiến Tuy nổi giận và nuôi ý định khác.
Ngày 18 tháng 10 (05/11/1522), Trịnh Tuy và Trịnh Duy Thuân tuyên bố rằng họ đi khảo sát mặt bằng để xây dựng doanh trại tại xã Dịch Vọng (nay là phường Dịch Vọng – quận Cầu Giấy – Hà Nội). Tới tối, họ đóng quân tại đó và vào sáng sớm hôm sau, Trịnh Tuy cùng Duy Thuân phục kích tại Dịch Vọng, khai hỏa ba phát súng dẫn quân tấn công và hô vang. Trịnh Tuy đã uy hiếp và đưa vua về Thanh Hóa. Quốc tử giám tư nghiệp Lê Hữu Trung hy sinh trong cuộc giao tranh này.
Ngày 12 tháng 11 (29/11/1522), Định Sơn hầu Giang Văn Dụ nổi dậy chống Mạc Đăng Dung tại các huyện Thanh Oai, Sơn Minh, Hoài An (nay là Hoài Đức – Hà Tây) và Chương Đức. Dân chúng các huyện Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú Nguyên hưởng ứng mạnh mẽ. Liên Hồ bá Lê Văn Phúc cấp báo; Mạc Đăng Dung lúc đó đang dẹp loạn ở Kinh Bắc, sai các tướng Kiều Văn Côn từ Phú Nguyên, Mai Xuyên hầu Lê Bá Ký từ Thành Đàm, Đông Sơn hầu Mạc Quyết từ Thanh Oai tấn công vào Chương Đức, hợp lực bốn mặt và đánh tan quân của Giang Văn Dụ.
Ngày 18 tháng 12 (4/1/1523), Vua Cung Hoàng rời hành điện ở Cẩm Giàng – Hải Dương trở về kinh đô.
Ngày 29 tháng 2 năm Thống Nguyên thứ 2 (15/03/1523) vào Minh Gia Tĩnh năm thứ 2, nhà vua tổ chức triều kiến tại hành dinh Bồ Đề – Bắc Ninh. Do năm trước là năm Nhâm Ngọ và chưa thể tổ chức khoa thi Hương vì loạn lạc, vua đã hạ chiếu để học trò từ Sơn Nam, Sơn Tây, Hải Dương và Kinh Bắc đến bãi Xuân Đỗ – huyện Gia Lâm dự thi.
Kỳ thi Hội tuyển đỗ 36 người, trong đó có Đào Nghiễm. Khi thi Đình, vua tự thân ra đề và hỏi về đạo làm vua, làm thầy, chọn đỗ Hoàng Văn Tán, Nguyễn Thuyên và Nguyễn Đạo Quán đỗ Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ Cập Đệ, cùng với tám người đỗ Tiến Sĩ khác như Đoàn Đình Chương. Đỗ Đệ Nhị Giáp Tiến Sĩ Xuất Thân; nhóm Nguyễn Súc 23 người đỗ Đệ Tam Giáp Đồng Tiến Sĩ Xuất Thân.
Mạc Đăng Dung cử các đồng đảng như Sơn Đông hầu Mạc Quyết, Quỳnh Khê hầu Vũ Hộ, Dương Xuyên hầu Vũ Như Quế dẫn quân đánh Trịnh Tuy ở Thanh Hóa, đánh tan quân của Tuy. Trịnh Tuy liền đưa Vua Chiêu Tông lên vùng thượng nguồn tại châu Lang Chánh.
Nguyễn Thì Ung, người xã Đa Ngưu – huyện Văn Giang, được phong làm Lương Văn hầu. Thì Ung có hai con gái, một người gả cho Vua Cung Hoàng, người còn lại gả cho Mạc Đăng Dung, sau được phong Thống quận công.
Tháng 8 (09/09 đến 08/10/1523), Mạc Đăng Dung dưới danh nghĩa Vua Cung Hoàng đã phế truất vua cũ Chiêu Tông, phong là Đà Dương Vương. Ông cũng bổ nhiệm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Quý Nhã làm Lại bộ Tả Thị Lang.
Mùa xuân năm Thống Nguyên thứ 3 (1524), tương đương Minh Gia Tĩnh năm thứ 3, nhà vua đóng tại hành dinh Bồ Đề, phong Mạc Đăng Dung làm Bình Chương Quân Quốc Trọng sự Thái phó Nhân Quốc công. Mạc Đăng Dung lại ra lệnh cho Mạc Quyết mang quân tấn công Trịnh Tuy tại thượng nguồn Thanh Hóa. Nguyễn Quý Nhã được phong làm Ngự sử đài phó Đô Ngự sử.
Ngày 24 tháng 11 (18/12/1524), vua truy tặng cố Thiết Sơn bá Trần Chân làm quận công và phong con trai ông là Trần Thực làm Hoằng Hưu bá. Trước đó, Chân đã bị gian thần gièm pha và bị hại cùng sáu thuộc hạ; đến nay nhà vua nhận ra lòng trung thành của ông và truy tặng danh hiệu.
Phía nhà Minh đã cử người giám sát tình hình Đại Việt, xác nhận rằng Vua Chiêu Tông chạy vào Thanh Hóa và Vua Cung Hoàng được Mạc Đăng Dung đưa lên ngôi. Tuy nhiên, một số thông tin sai lệch cũng được thu thập, như việc Vua Lê Tương Dực bị cho là bị Trịnh Duy Sản giết thay vì Trần Cảo và chuyện Mạc Đăng Dung lấy mẹ Vua Chiêu Tông làm vợ là không chính xác.
Ngày 28 tháng 12 năm Gia Tĩnh thứ 3 (21/1/1525)
Trước đây cho rằng tình hình tại An Nam chưa được tường thuật rõ ràng đã lệnh quan trấn, tuần tra điều tra. Nay Tuần Án Quảng Tây Ngự sử Uông Uyên đã tâu trình đầy đủ rằng:
“Quốc vương An Nam Lê Trừu không có con, lập Huệ, con của người anh tên Hiển, làm Thế tử.
Vào năm Chính Đức thứ 11 (1516-1517), một quan chức tên Trần Cảo (thực ra là Trịnh Duy Sản) đã giết Trừu; bọn Lê Hồi lập Huệ lên ngôi (Vua Chiêu Tông). Mạc Đăng Dung đã chiến thắng, đẩy Cảo chạy trốn, sau đó Cảo chết. Con của Cảo là Thăng vẫn còn đóng tại Lạng Sơn, gây nên sự bất ổn. Đăng Dung sau khi chiến đấu và lập công đã lấy vợ góa của Hiển, tức mẹ của Huệ rồi âm mưu chiếm đoạt quyền lực; vì vậy Đỗ Ôn Nhuận và Trịnh Tuy đã đưa Huệ đến Thanh Đô (Thanh Hóa).
Đăng Dung ép em của Huệ là Quảng (Xuân, tức Vua Cung Hoàng) lập căn cứ tại các phủ Hải Đông và Trường Khánh. Lúc này, nội bộ đất nước rối ren, không có một người lãnh đạo thống nhất. Phủ Trường Khánh tuyên bố trong văn thư rằng ‘Mạc Đăng Dung bảo vệ đất nước; gian thần Đỗ Ôn Nhuận và Trịnh Tuy đã ép buộc Huệ đến Thanh Đô, vì thế Đăng Dung tạm thời lập Quảng để điều hành quốc sự. Nay đã giết được Ôn Nhuận và đẩy lui Trần Thăng, đất nước đã được bình ổn’ (ám chỉ vùng do Mạc Đăng Dung kiểm soát).
Thần nhận định rằng việc lập Lê Huệ là chính danh, ông đã cai trị trong 7 năm nhưng sau đó bất ngờ bỏ trốn. Nếu Đăng Dung trung thành sao không tập trung chống giặc mà lại mưu toan lập người khác, điều này khó tránh tội lấn quyền. Thêm nữa, Lê Hiển đã qua đời sớm, làm sao có thể có con nhỏ; hoặc có thể Đăng Dung lấy vợ sinh con rồi giả xưng là Lê Quảng, cũng không thể loại trừ khả năng này! Hơn nữa, Thanh Đô nằm ở biên giới phía nam, tin tức cách trở, việc giết Đỗ Ôn Nhuận cũng chưa biết đúng hay sai; việc Lê Huệ còn sống hay không cũng chưa rõ và ông này chưa được sắc phong, nên không thể bàn luận một cách thiếu thận trọng”.
Hai bộ Lễ và Binh đã trình bày thêm:
“Loạn lạc tại An Nam bắt nguồn từ việc Trần Cảo phản nghịch, sau đó Lê Trừu bị giết, tiếp đến là sự mưu mô của Đăng Dung khiến Lê Huệ phải lưu vong. Đăng Dung phản bội chủ cũ, lập Lê Quảng. Huệ là anh, Quảng là em; em không thể thay thế anh và Đăng Dung là bề tôi không thể phế bỏ chủ. Hiện tại, đất nước không có một người lãnh đạo hợp pháp. Nếu sau này Huệ có thể trở về và khôi phục ngôi vị, thì cần sắc phong. Nếu Huệ không thể trở về, phong cho Quảng là đồng lõa với mưu phản, không phong thì không có người thừa kế chính thức, điều này gây khó xử. Cần chờ tình hình ổn định, kiểm tra kỹ càng trước khi quyết định phong sắc”.
Thiên tử phê chuẩn:
“Các quan Trấn, Tuần tra khám thực, rồi tâu lên để định đoạt”. Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, tập 3, trang 175.
Vào ngày 9 tháng 10 năm Thống Nguyên thứ 4 (24/10/1525), tức Minh Gia Tĩnh năm thứ 4, Mạc Đăng Dung đã tiến hành kinh lý các xứ, tự đảm nhiệm vai trò Đô tướng, chỉ huy toàn bộ lực lượng thủy bộ của quốc gia để tiến đánh Trịnh Tuy tại đầu nguồn Thanh Hóa. Vào giờ Mùi [13:00-15:00] ngày 28 (12/11/1525), Mạc Đăng Dung đã bắt được vua cũ Chiêu Tông tại động An Nhân – xã Cao Sơn – sách Thúy Cử – châu Lang Chánh – Thanh Hóa.
Ngày 19 tháng 11 (03/12/1525), Vua Cung Hoàng ban chiếu tôn vinh công lao của Mạc Đăng Dung khi đánh tan Trịnh Tuy và bắt Đà Dương Vương (Vua Chiêu Tông) trở về:
“Đế vương trừ bạo yên dân, đại nghĩa Xuân Thu sáng tỏ, vua chúa ban ơn phát lộc, lòng nhân mưa móc rộng ban, đạo trị được bày ra, đức hóa thấm khắp. Đất nước ta, khi thời thế chuyển biến, vận nước được mở ra, ứng với mệnh trời và hợp lòng người. Thái Tổ Cao Hoàng Đế đã sáng lập và gây dựng nền tảng, cứu sinh linh khỏi lửa đạn chiến tranh; Thái Tông Văn Hoàng Đế đặt ra kỷ cương, tạo thế nước vững mạnh như thành đồng, gốc thẳng, nguồn xa, nhân sâu, ân hậu; Thánh Tông Thuần Hoàng Đế giữ gìn biên cương, chinh chiến bằng vũ lực và bảo vệ đất nước bằng văn chương; Hiến Tông Duệ Hoàng Đế kế tục, giữ vững lễ nghĩa và thực thi những mưu hay rõ rệt, công lớn nối tiếp.
Những bậc thánh nhân, truyền nối, cùng nhau làm gương mẫu. Phúc lợi tưởng như kéo dài mãi mãi, giống như nhà Chu, vận hạn bỗng nhiên gặp khó khăn, như nhà Hán từng trải. Vào khoảng niên hiệu Hồng Thuận, Quang Thiệu, vận nước lâm nguy, các loạn thần như Trần Cảo và Trịnh Tuy đã gieo rắc tai họa khắp nơi. Chúng như bầy sói, gieo rắc nỗi khổ đau, còn dân chúng như đàn chim nhạn kêu thương trong lo lắng. Ta là cháu của Đức Tông (Kiến Vương Lê Tân), là con của Minh Tông (Cẩm Giang Vương Lê Sùng), mang nghĩa lớn, gượng theo lòng dân, thương dân như con, đau xót trước cảnh ngộ bi thảm.
Để đạt được hòa bình, cần phải đoàn kết và chung tay. Đặc sai Đô tướng thái phó Nhân quốc công Mạc Đăng Dung, thống lĩnh quân binh toàn quốc, kể tội và trừng phạt bọn giặc. Quân đội ta, như chim ưng và hổ dũng mãnh, đã quét sạch bọn giặc, như bầy nai tản mát hay đàn kiến tan rã. Trần Cảo, Trịnh Tuy thất bại và bại vong, các bầy tôi như Khắc Thân, Dư Hoan nhanh chóng bị tiêu diệt tại Thiên Quan; lũ phản loạn Công Khản, Đình Tán cũng bị diệt trừ tại Lang Chánh.
Cuối tháng thuần âm (tháng 10), Đà Dương Vương được bắt trở về kinh đô. Từ đông sang tây, từ nam tới bắc, quốc gia đại đồng và lòng dân bình yên. Việc trị nước cần phải khoan dung và hòa nhã.”
“Cảm nhận đức để hợp đạo trung, trở lại sự trật tự Đường Ngu trị nước. Báo cáo khắp nước để mọi người cùng biết”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 15, trang 63a.
Tháng 12 (14/12/1525 đến 12/01/1526), sau khi bắt được Vua Chiêu Tông, Mạc Đăng Dung đã thực hiện các biện pháp khủng bố, trấn áp những quan trung thành với vua cũ khiến hàng chục người phải tuẫn tiết. Trong số đó có Phúc Lương hầu Hà Phi Chuẩn, người đóng quân tại Bắc Giang.
Khi nghe tin Mạc Đăng Dung bắt được Vua Chiêu Tông, Phi Chuẩn giải tán quân và trốn về Bắc, nhưng bị đồng bọn là Tử Nhạc bá bắt và giải về Kinh sư, sau đó bị xử thắt cổ đến chết. Các quan như Lại bộ thượng thư Đàm Thận Huy, Tham chính sứ Kinh Bắc Nguyễn Duy Tường, Hiến sát sứ Nguyễn Tự Cường và Bình hồ bá Nghiêm Bá Ký đã chỉ huy dân quân chống lại Đăng Dung nhưng không thành và đều tự sát.
Nguyễn Mậu, người từng theo Vua Chiêu Tông về Thanh Hóa, khi Chiêu Tông bị Đăng Dung áp giải trở lại, đã tự quay về Kinh sư chịu tội. Ban đầu, ông bị định xử tử nhưng Phạm Gia Mô tiếc tài năng của ông nên can gián và ông được tha, sau đó bị giáng chức làm Thừa chính sứ Tuyên Quang, rồi được thăng lên làm Ngự sử đài đô ngự sử một thời gian sau.
Ngày 12 tháng 2 năm Thống Nguyên thứ 5 (24/03/1526), vua trở về Tây Kinh – Thanh Hóa và Vua Chiêu Tông cũng theo về cùng.
Tháng 4 (11/05 đến 09/06/1526), tổ chức thi Hội với sự tham gia của các sĩ nhân trong nước. Kết quả là Phạm Đình Quang cùng 19 người khác được chọn đỗ. Trong kỳ thi Đình, các bài văn sách được đặt ra hỏi về cách trị nước của các bậc thánh hiền. Trần Tất Văn, Nguyễn Văn Du, Lưu Trung Doãn đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ; Lê Quang Bí cùng ba người khác đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; Phạm Đình Quang và 12 người khác đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Tháng 8 (07/09 đến 05/10/1526), lệnh được ban ra cho các phủ Thượng Hồng, Hạ Hồng, Kinh Môn, Nam Sách, Thái Bình để đắp đê Chân Kim tại Hải Dương. Mạc Đăng Dung cũng ra lệnh xử tử Tiến quận công Nguyễn Lĩnh. Lĩnh, người đã kết hôn với em gái của Mạc Đăng Dung tên là Huệ (sau được phong là Khánh Diễm công chúa), đã bị cáo buộc vì lập mưu phản. Sau khi Lĩnh bị xử tử, Huệ được gả cho Lương Khê hầu Bùi Đỗ, người sau đó được phong làm Lâm quốc công.
Ngày mồng 6 (12/09/1526), Mạc Đăng Dung bổ nhiệm Ngự sử đài phó đô ngự sử Nguyễn Quý Nhã làm Lại bộ thượng thư và bồi thị kinh diên.
“Ngày 18 tháng 12 (19/01/1527), Thái phó Nhân quốc công Mạc Đăng Dung đã ra lệnh cho Bái Khê bá Phạm Kim Bảng bí mật sát hại Vua Lê Chiêu Tông tại phường Đông Hà (nay là Ô Quan Chưởng – Hà Nội), sau đó đưa thi hài về mai táng tại lăng Vĩnh Hưng – Thanh Đàm (Thanh Trì – Hà Nội).
Vào tháng 4 năm Thống Nguyên thứ 6 (30/04 đến 29/05/1527) (từ tháng 6 trở đi, nhà Mạc đổi niên hiệu thành Minh Đức năm thứ nhất; Minh Gia Tĩnh năm thứ 6), Mạc Đăng Dung được Vua sai phái các đại thần như Tùng Dương hầu Vũ Hữu, Lan Xuyên bá Phan Đình Tá, Trung sứ Đỗ Hiếu Đễ mang kim sách, mũ áo, ô lọng, đai ngọc, kiệu tía và các vật phẩm khác tới Cổ Trai – huyện Nghi Dương (huyện Kiến Thụy – Hải Phòng) để tấn phong ông làm An Hưng Vương và gia thêm Cửu Tích. Đăng Dung đã đón tiếp đoàn ở bến đò An Tháp – huyện Tân Minh (huyện Tiên Lãng – Hải Phòng).
Ngày mồng 5 tháng 5 (03/06/1527), ban phát quạt, vua đã sáng tác bài thơ “Chu Công giúp Thành Vương” để ca tụng công lao của Mạc Đăng Dung như sau:
“Hựu mệnh Chu gia thực tự thiên,
Cần lao tá trị nhiệm nhân hiền.
Trấm tà khẳng vị sàm nhân thiết,
Trung hiếu chung tồn thực đức kiên.
Lễ bị nhạc hoà bình định nhật,
Chính thanh hình thố hạo hy niên.
Hưu phong lệnh vận quang thiên cổ,
Cảnh hạnh cao sơn thượng miễn chiên.”
Dịch thơ:
“Giúp vận nhà Chu thực tự trời,
Chăm lo công việc dụng hiền tài.
Gièm pha mặc kẻ bày nhiều cách,
Trung hiếu bền lòng chẳng chút sai.
Lễ đủ, nhạc hoà, đời thịnh trị,
Chính hay, hình ít, buổi vui tươi.
Tiếng hay đức tốt nghìn thu rạng,
Núi cao, đường rộng hãy noi người.”
Tháng 6 (28/06 đến 27/07/1527), Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào Kinh, buộc vua nhường ngôi. Lúc bấy giờ, thần dân trong kinh đô đều theo Mạc Đăng Dung và đón ông vào kinh. Ngày 15 (12/07/1527), khi các quan đã có mặt đầy đủ, chiếu nhường ngôi vẫn chưa được ban bố. Các quan yêu cầu Lại bộ thượng thư Trương Phu Duyệt thảo chiếu, nhưng ông trừng mắt từ chối với lời: “Thế là nghĩa gì?”. Sau đó, Đông các đại học sĩ Đạo Nguyện bá Nguyễn Văn Thái đã nhận trách nhiệm và thảo chiếu với nội dung:
“Nghĩ Thái Tổ ta, thừa thời cách mệnh, có được thiên hạ, các vua truyền nhau, nối giữ cơ đồ, là do mệnh trời và lòng người hòa hợp mà thành. Cuối đời Hồng Thuận, nhiều tai họa xảy ra, Trần Cảo gây mầm loạn, Trịnh Tuy phản nghịch. Lòng người xa lìa, mệnh trời không trợ. Khi ấy, thiên hạ không còn là của nhà ta. Ta không có đức, giữ ngôi bất xứng. Nay cân nhắc mọi lẽ, ta quyết định nhường ngôi cho Thái sư An Hưng Vương Mạc Đăng Dung, người có tài văn võ, được trời và người tín nhiệm. Hãy giữ vững đức lớn, tiếp nối mệnh trời để muôn dân được thái bình”.
Ngay sau đó, Mạc Đăng Dung lên ngôi Hoàng đế, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu thành Minh Đức. Ông giáng phong Vua Lê làm Cung Vương và giam ông cùng Hoàng Thái hậu tại cung Tây Nội. Vài tháng sau, cả hai bị buộc phải tự tử. Trước khi mất, Thái hậu nguyền rằng: “Đăng Dung là kẻ bề tôi, mưu đồ soán ngôi, giết mẹ con ta, ngày sau con cháu hắn cũng sẽ chịu cảnh tương tự”.
Sự kiện Mạc Đăng Dung lên ngôi hoàng đế
Sự kiện Mạc Đăng Dung bắt vua Lê nhường ngôi và tự xưng hoàng đế đã đánh dấu một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử Việt Nam. Hành động này mở ra triều đại mới nhưng cũng để lại nhiều hệ quả phức tạp, dẫn đến sự chia rẽ và xung đột kéo dài giữa các phe phái. Lịch sử đã ghi lại Mạc Đăng Dung như một nhân vật vừa tài năng vừa gây tranh cãi, với những quyết định làm thay đổi cục diện quyền lực trong thời kỳ phong kiến.