Mạc Đĩnh Chi trở thành lưỡng quốc Trạng Nguyên nhờ “quay bài“

Mạc Đĩnh Chi – vị Lưỡng quốc Trạng Nguyên nổi tiếng – từng chinh phục triều đình nhà Nguyên bằng tài năng ứng đối vô cùng khéo léo. Câu chuyện về cách ông “quay bài” tinh tế đã trở thành huyền thoại trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam. Hãy cùng tìm hiểu chi tiết về sự kiện đầy bất ngờ này và khám phá tài trí xuất chúng của ông trong bài viết dưới đây.

Mạc Đĩnh Chi là ai?

Mạc Đĩnh Chi (1272-1346) là một danh nhân văn hóa và chính trị nổi tiếng thời nhà Trần ở Việt Nam. Ông quê ở làng Lũng Động – huyện Chí Linh – tỉnh Hải Dương (nay thuộc thôn Lũng Động – xã Nam Tân – huyện Nam Sách – tỉnh Hải Dương).

Mạc Đĩnh Chi được biết đến là một người học giỏi, thông minh, ông đỗ Trạng Nguyên vào năm 1304 dưới triều vua Trần Anh Tông. Dù có ngoại hình giản dị, nhỏ bé nhưng ông lại sở hữu trí tuệ sắc bén và tài năng vượt trội.

Tượng thờ Mạc Đĩnh Chi

Tượng thờ Mạc Đĩnh Chi

Mạc Đĩnh Chi và danh hiệu Lưỡng quốc Trạng Nguyên

Lớn lên từ cuộc sống nghèo khó

Ngay từ khi còn nhỏ, Mạc Đĩnh Chi đã nỗ lực học tập không ngừng vì ông hiểu rằng chỉ có tri thức mới có thể giúp ông thoát khỏi cảnh nghèo khó. Nhờ tài năng văn chương xuất sắc, ông được Chiêu Quốc Vương để ý, nhận làm môn đồ và chu cấp tiền bạc để ông có điều kiện theo đuổi con đường học vấn.

“Có công mài sắt, có ngày nên kim“, năm 1304 khi mới 24 tuổi, Mạc Đĩnh Chi tham gia kỳ thi Đình. Ông xuất sắc đỗ đầu kỳ thi, nhưng khi vào yết kiến vua Trần Anh Tông, nhà vua thấy dung mạo ông xấu xí nên tỏ vẻ không hài lòng và có ý định không muốn trao danh hiệu Trạng Nguyên.

Nhận thấy điều này, Mạc Đĩnh Chi đã viết bài phú “Ngọc tỉnh liên” (Hoa sen trong giếng ngọc) dâng lên vua. Trong bài phú, có những đoạn được dịch từ tiếng Hán như sau:

Chẳng phải như đào trần lý tục; chẳng phải như trúc cỗi mai gầy.

Câu kỷ phòng tăng khó sánh; mẫu đơn đất Lạc nào tầy.

Giậu Đào Lệnh cúc sao ví được; vườn Linh Quân lan khó sánh thay!

Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái hoa đây.

Trong bài phú này, Mạc Đĩnh Chi tự ví mình như một bông sen trong giếng ngọc, ẩn ý khuyên nhà vua đừng chỉ đánh giá một người qua vẻ bề ngoài.

Sau khi đọc xong, vua Anh Tông rất cảm phục trước tài năng và trí tuệ của ông, liền phong ông đỗ Trạng Nguyên, ban thưởng áo mão võng lọng cho ông vinh quy bái tổ, đồng thời bổ nhiệm ông vào chức Thái học sinh hỏa dũng thủ và sung làm Nội thư gia.

Đấu trí trên đất của kẻ địch

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, vào năm 1308 khi sứ giả nhà Nguyên là Thượng thư An Lỗ Khôi sang Đại Việt báo tin Vũ Tông lên ngôi, vua Trần Anh Tông đã cử Mạc Đĩnh Chi sang đáp lễ. Chuyến đi này được xem là “đầy hiểm nguy” bởi nhà Nguyên vẫn chưa nguôi thất bại trong ba cuộc xâm lược Đại Việt trước đó.

Khi đến triều đình nhà Nguyên, Mạc Đĩnh Chi ban đầu bị khinh thường vì vẻ ngoài thấp bé, dung mạo không nổi bật. Tại buổi tiếp kiến đầu tiên ở kinh đô Yên Kinh, vua Nguyên ra một câu đối để thử tài ông: Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy mặt trăng. Hàm ý nhà Nguyên lớn mạnh, luôn dễ dàng tiêu diệt các nước nhỏ như Đại Việt).

Mạc Đĩnh Chi nhanh chóng ứng đối: Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô (Mặt trăng là cung, sao là đạn, hoàng hôn bắn rụng mặt trời. Ý muốn nói nước nhỏ cũng có thể đánh bại quân đội nước lớn). Vua Nguyên nghe xong, tức giận nhưng cũng không thể không thừa nhận tài đối đáp xuất sắc và khôn khéo của Mạc Đĩnh Chi.

Một lần khác, Tể tướng nhà Nguyên mời ông vào phủ. Lúc đó đang là giữa tháng 5, tháng 6, trong phủ có bức trướng mỏng thêu hình chim sẻ vàng đậu trên cành trúc. Mạc Đĩnh Chi giả vờ tưởng chim thật, vội chạy đến bắt, khiến mọi người bật cười, cho rằng ông quê kệch và lạc hậu. Thấy vậy, Mạc Đĩnh Chi liền kéo bức trướng xuống và xé đi.

Mọi người sửng sốt, hỏi vì sao ông làm vậy, Mạc Đĩnh Chi trả lời: “Tôi từng nghe người xưa vẽ mai với chim sẻ, chưa từng thấy chim sẻ đậu trên cành trúc. Trúc là biểu tượng của quân tử, còn chim sẻ là loài tiểu nhân. Bức trướng này thêu chim sẻ trên cành trúc, chẳng khác nào để tiểu nhân đứng trên quân tử, đạo của quân tử suy mà tiểu nhân mạnh. Tôi vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân”. Câu nói đầy ẩn ý và sâu sắc của ông khiến mọi người trong phủ nể phục.

Trong một tình huống khác, khi ông Mạc Đĩnh Chi đang ở kinh đô Yên Kinh, ông hay tin công chúa được vua Nguyên thương yêu nhất vừa qua đời. Ông được quan lại nhà Nguyên giao nhiệm vụ đọc văn tế, nhưng khi mở ra chỉ có đúng một chữ “Nhất”. Dù tình huống bất ngờ, Mạc Đĩnh Chi ngay lập tức ứng khẩu:

Thanh thiên nhất đóa vân,

Hồng lô nhất điểm tuyết,

Thượng uyển nhất chi hoa,

Dao trì nhất phiến nguyệt.

Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!

 

(Một đám mây trên bầu trời xanh

Một bông tuyết trong lò lửa hồng

Một bông hoa trong vườn thượng uyển

Một vầng trăng ở cung Dao Trì

Than ôi! Mây tan, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!)

Chỉ với một chữ “Nhất” Mạc Đĩnh Chi đã ứng tác bài văn tế đầy xúc động, khiến vua Nguyên và cả triều đình nghe xong đều bồi hồi, ngấn lệ. Những tình huống đấu trí tài tình và khôn khéo trên đất khách đã khiến Mạc Đĩnh Chi không chỉ khẳng định tài năng của mình mà còn giúp bảo vệ danh dự của Đại Việt trước nước lớn như nhà Nguyên.

Trở thành Lưỡng quốc Trạng nguyên nhờ “quay bài”

Trong chuyến đi sứ của Mạc Đĩnh Chi, có một buổi chầu tại triều đình nhà Nguyên, khi có người nước ngoài mang quạt đến dâng tặng vua. Nhân dịp này, với sự hiện diện của cả sứ thần Cao Ly, vua Nguyên mời Mạc Đĩnh Chi và sứ thần Cao Ly cùng nhau làm thơ vịnh để đề lên quạt.

Lúc đó, Mạc Đĩnh Chi bất ngờ bị yêu cầu, không có sự chuẩn bị trước nên có phần “bí” ý tưởng. Ông nhanh trí nhìn sang phía sứ thần Cao Ly, đoán được nội dung qua nét bút và thấy ông này viết:

“Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công

Vũ tuyết thê thê, Bá Di, Thúc Tề”

(Nghĩa là: Khi nóng bức thì quạt trở nên đắc dụng như Y Doãn, Chu Công giúp vua trị nước, còn khi đông giá thì lại xếp xó như Bá Di, Thúc Tề bị bỏ rơi mà chết đói).

Nắm bắt được ý tưởng, Mạc Đĩnh Chi lập tức sáng tác:

“Lưu Kim thước thạch thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho

Bắc phong kỳ thê vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngã phu

Y, dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thi phù”

(Chảy vàng tan đá, trời đất như lò, khi ấy ngươi giống như Y Chu đại nho. Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, lúc đó ngươi tựa Di Tề nghèo khó. Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm yên, chỉ riêng ta và ngươi mới hiểu điều này).

Bài thơ của Mạc Đĩnh Chi có ý tương tự như bài của sứ thần Cao Ly, nhưng được đánh giá cao hơn nhờ việc trích dẫn câu trong sách Luận ngữ, hàm ý: “Ai dùng ta thì ta phục vụ, ai không cần thì ta giữ mình, chỉ người trí tuệ mới có thể hiểu được điều này.”

Vua Nguyên, ấn tượng và cảm phục tài năng văn chương của Mạc Đĩnh Chi, đã viết lên chiếc quạt bốn chữ “Lưỡng quốc Trạng Nguyên” vinh danh ông không chỉ là Trạng nguyên của Đại Việt mà còn của cả đất nước nhà Nguyên.

Tấm gương liêm khiết, kết duyên với người Cao Ly và hậu duệ xưng đế

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Mạc Đĩnh Chi được biết đến là một người liêm khiết, sống giản dị và đạm bạc. Vua Trần rất kính trọng ông, nên có lần lệnh cho người bí mật mang 10 quan tiền đến nhà ông vào ban đêm. Hôm sau, Mạc Đĩnh Chi vào triều, tâu rõ sự việc lên vua. Nhà vua nói: “Không ai nhận lại số tiền đó, vậy khanh cứ giữ mà dùng.” Tuy nhiên, ông vẫn không màng đến số tiền ấy, thể hiện tấm lòng thanh liêm, chính trực.

Dưới thời vua Hiến Tông, Mạc Đĩnh Chi đảm nhiệm chức Nhập nội hành khiển Hữu ty lang trung rồi thăng lên Tả ty lang trung. Trong thời gian làm sứ giả tại Yên Kinh (Trung Quốc), ông đã kết thân với một sứ thần người Cao Ly. Ấn tượng với tài năng của Mạc Đĩnh Chi, vị sứ thần này đã mời ông đến Cao Ly và gả cháu gái cho ông.

Vợ người Cao Ly của Mạc Đĩnh Chi đã sinh cho ông một trai, một gái. Hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi sau này định cư tại Cao Ly và hình thành một dòng tộc riêng ở đó. An Nam tạp chí số 4 năm 1926, từng đăng bài viết của học giả Lê Khắc Hòe với tiêu đề “Người Triều Tiên đi bán sâm là hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi” minh chứng cho sự hiện diện của dòng tộc Mạc tại đất nước này.

Tương truyền rằng, khi Mạc Đĩnh Chi ứng đối tài tình với câu nói “bắn rụng mặt trời” trước bá quan văn võ nhà Nguyên, có người đã tiên đoán: “Hậu duệ của người này sau này chắc chắn sẽ tự lập làm vua.”

Điều này trở thành hiện thực khi Mạc Đăng Dung, cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi đã phế truất nhà Lê và thành lập nhà Mạc. Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi lại rằng Mạc Đăng Dung là người xã Cao Đôi – huyện Bình Hà (nay là xã Long Động – huyện Chí Linh), có tiên tổ là Mạc Đĩnh Chi, Trạng Nguyên triều Trần, làm quan đến chức Tả bộc xạ.

Gia phả của Mạc Đĩnh Chi ghi rằng: Ông sinh ra Cao, Cao sinh ra Thúy, Thúy sinh Tung. Dòng họ dời sang xã Lan Khê – huyện Thanh Hà sau đó Tung sinh ra Bình. Bình chuyển đến xã Cổ Trai – huyện Nghi Dương và định cư ở đó. Con trai của Bình là Hịch, kết hôn với con gái trưởng của Đặng Xuân cùng xã, sinh ba con tra, trong đó người con cả chính là Mạc Đăng Dung.

Sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung đã truy tôn Mạc Đĩnh Chi làm Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng Đế. Triều đại nhà Mạc kéo dài hơn 150 năm, trải qua 4 đời vua và để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

Đền thờ Mạc Đĩnh Chi

Đền thờ Mạc Đĩnh Chi

Câu chuyện về Mạc Đĩnh Chi trở thành Lưỡng quốc Trạng Nguyên là minh chứng rõ ràng cho trí tuệ sắc bén và tài ứng biến vượt trội của ông. Không chỉ nhờ tài học vấn, Mạc Đĩnh Chi còn biết cách tận dụng những tình huống khó khăn để biến chúng thành cơ hội, gây ấn tượng mạnh mẽ với triều đình nhà Nguyên. Từ đó, ông không chỉ trở thành niềm tự hào của Đại Việt mà còn là biểu tượng của sự khéo léo và tài năng ngoại giao mà thế hệ sau mãi ngưỡng mộ.