Chuyện kinh dị và khó tin về nạn đói 1945 ăn thịt người
Nạn đói 1945 ăn thịt người không chỉ là thảm họa về lương thực mà còn là bi kịch tột cùng của con người. Với hơn 2 triệu người chết đói, nhiều người dân Việt Nam rơi vào cảnh tuyệt vọng đến mức phải ăn thịt người để sinh tồn. Đây là một sự thật đau lòng, phản ánh mức độ tàn khốc của thảm họa này. Hành động ăn thịt người không chỉ làm lộ rõ sự khủng hoảng về lương thực mà còn cho thấy sự bất lực của chính quyền chiếm đóng và nỗi đau của dân tộc.
Những câu chuyện kinh hoàng về nạn đói 1945 ăn thịt người ở Thái Bình
Ông Trần Hùng, một người dân thôn Trình Nhì (xã An Ninh – Tiền Hải – Thái Bình), đã chia sẻ với chúng tôi nhiều tài liệu quý giá về lịch sử của vùng đất và con người nơi đây, đặc biệt gắn liền với trận đói lịch sử năm Ất Dậu 1945.
Theo những tư liệu ông cung cấp, vùng đất xóm chợ Huyện (Tiền Hải – Thái Bình) trước đây thuộc làng Trình Phả (về sau khi phát triển thêm phố phường và chợ đông đúc nên được gọi là Trình Phố) – thuộc tổng An Bồi – huyện Chân Định – phủ Kiến Xương. Đây là vùng đất trù phú, thuận lợi về giao thông thủy bộ với hoạt động buôn bán sầm uất. Nhiều người từ khắp nơi đổ về đây lập nghiệp và sinh sống. Trước thế kỷ 18, huyện lỵ Chân Định chọn khu vực này làm trung tâm hành chính, từ đó chợ họp tại đây có tên là chợ Huyện.
Chợ Huyện làng Trình Nhì được xem là chợ lớn nhất trong khu vực, nơi giao thương buôn bán của người dân các huyện Tiền Hải, Thái Thụy, Kiến Xương, thị xã Thái Bình cũng như các huyện lân cận như Xuân Trường, Giao Thủy (Nam Định) và Vĩnh Bảo (Tiên Lãng – Hải Phòng). Ngay trước cổng chợ có một con sông với cây cầu gạch bắc qua, cảnh “trên bến dưới thuyền” thanh bình, nước sông trong vắt.
Cụ Trần Duy Hứa, năm nay đã 88 tuổi, là người dân của chợ Huyện. Dù tuổi cao, cụ vẫn nhớ rõ từng chi tiết về trận đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945. Cụ dẫn chúng tôi ra chợ Huyện làng Trình Nhì và kể lại ký ức về nạn đói lịch sử này.
Theo lời cụ Hứa, vào năm Ất Dậu cả nước mất mùa, người dân không còn gì để ăn. Ban đầu, họ vẫn có cháo gạo, cháo cám, cháo bỗng để cầm cự. Nhưng rồi ngay cả gạo, cám cũng hết, khiến mọi người phải tìm đến những thứ như củ chuối, rau sam, rau má, bèo bồng để duy trì sự sống. Khi không còn cách nào khác, người dân bỏ làng đi tìm thức ăn, xóm làng trở nên xơ xác, tiêu điều. Người từ các nơi khác cũng đổ về chợ để ăn xin.
Trong chợ, trộm cắp diễn ra liên tục. Người bán hàng phải có 1-2 người cầm gậy để canh chừng. Vì đói quá, nhiều người bất chấp nguy hiểm, xông vào cướp. Có những trường hợp, một người vừa bóc tấm bánh chưa kịp đưa lên miệng thì bị giật ngay tức khắc. Người giật được thì cố nhét bánh vào miệng, trong khi người bị cướp và người bán vật lộn để giành lại. Những cuộc đụng độ như vậy thường kết thúc bằng cảnh đánh đấm tàn bạo với thân hình chỉ còn da bọc xương. Máu hòa cùng đất, bánh vụn vương vãi khắp nơi.
Những cảnh tượng chém giết để tranh giành miếng ăn tàn bạo hơn cả thời Trung cổ. Cuối cùng, cả người cướp và người bị cướp cũng đều chết vì đói.
Thời điểm đó, một số gia đình khá giả ở làng, khu vực chợ Huyện đã cố gắng cứu giúp người dân bằng cách nấu cháo phát chẩn, nhưng tình hình ngày càng vượt tầm kiểm soát. Người chết nằm la liệt khắp chợ, dọc đường và dọc bờ sông. Cảnh tượng đau lòng nhất là những đứa trẻ nhỏ còn cố mút đầu vú của người mẹ đã lạnh cứng từ lâu.
Hình ảnh những cậu bé gầy trơ xương vì không có gì ăn
Ban đầu, người chết còn được bó bằng chiếu và những người khỏe mạnh hơn khiêng ra bãi tha ma để chôn cất. Tuy nhiên, khi số người chết tăng vọt, việc đưa đi chôn không xuể nữa. Người dân phải đào những hố nông ngay sát bờ sông quanh khu vực chợ rồi lấp vội vàng đất lên xác chết.
Trong làng Trình Nhì, cụ Nhất Lược – một thương nhân buôn mật mía và mật ong nổi tiếng đức độ, thường xuyên cứu giúp người nghèo. Khi chứng kiến cảnh người làng chết đói hàng loạt, cụ đã mua chiếu phát cho các gia đình có người qua đời. Ban đầu, mỗi người chết được bó bằng hai lá chiếu, nhưng sau đó vì thiếu hụt, chỉ còn được một lá, khiến đầu được che nhưng chân lại hở. Đau đớn hơn, có những kẻ thuê đi chôn người chết đã tháo chiếu ra bán lại để kiếm lời.
Trước năm 1945, khu vực chợ Huyện có gần 2.000 nhân khẩu, nhưng nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu đã cướp đi tới 70% dân số trong khu vực. Gần 50 gia đình trong xóm đã chết sạch không còn ai sống sót. Gia đình ông Trương Ry mất 8 người, gia đình ông Phan Giá chết 7 người, gia đình ông Đồ Thực mất 10 người và gia đình ông Phan Hạnh có 13 người thì cả 13 người đều qua đời. Các gia đình ông Trần Duẩn, ông Đồ Tỵ, ông Đồ Trâm,… cũng không còn ai sống sót.
Nhiều người đã phải chôn người thân ngay trong vườn nhà vì những người sống sót không còn đủ sức để kéo xác ra nghĩa địa. Gia đình ông Trương Ry chết hết cả nhà, xác bị thối rữa ngay trong nhà và chỉ khi mùi hôi thối bốc lên, dân làng mới biết. Để đưa xác những người chết thối ra khỏi nhà, người ta phải dùng tro rơm, rạ trải ra nền nhà, rồi lăn xác qua tro trước khi bó bằng chiếu để chôn.
Con sông chảy qua chợ Huyện, vốn là nơi yên bình và thơ mộng bỗng chốc trở thành nơi chôn xác hàng trăm người chết đói. Xung quanh miếu Bách Linh (nay không còn tồn tại) la liệt các hố chôn người từ khắp nơi đổ về, không chỉ người làng mà cả những người xa xứ chết vì đói.
Theo lời cụ Trần Duy Hứa, thời điểm đó số lượng người chết vì đói quá lớn khiến khắp khu chợ và đường làng bốc lên mùi hôi thối nồng nặc, ruồi nhặng và chuột bọ xuất hiện khắp nơi. Những xác chết chưa kịp chôn bị chuột tấn công, khoét mắt, gặm tai, mũi, ngón tay và ngón chân.
Ông Chén, một người dân sống gần chợ chia sẻ rằng chính vì đã chứng kiến tận mắt những cảnh tượng khủng khiếp đó mà từ đó ông không bao giờ dám động đến món thịt chuột, dù người Thái Bình vốn quen ăn món này.
Người dân trong làng quá bàng hoàng trước cảnh tượng thê thảm của nạn đói. Xác chết nằm la liệt trong khu chợ Huyện, khiến ban ngày chỉ có những người thật sự cần thiết mới ra ngoài và họ đi nhanh như thể sợ ma đói đuổi theo
Ban đêm, cả làng chìm trong sự im lặng chết chóc, chó dù còn sống cũng không còn sức để sủa. Thỉnh thoảng, từ đầu xóm đến cuối xóm chỉ nghe thấy tiếng khóc yếu ớt vang vọng. Nhà nào cũng đóng kín cửa, lo sợ ma đói hoặc cướp bóc.
Cụ Hứa chỉ về phía những lùm cây xanh gần khu miếu Bách Linh ngày xưa và kể lại rằng vào cuối năm 1944 và đầu năm 1945, khi dân làng đang mất mùa, chịu cảnh đói khát, thì thêm thiên tai ập đến. Bão gió, mưa lớn khiến đê vỡ, nước sông dâng cao và bào mòn đất cát, làm lộ ra hàng trăm xác chết vì chôn quá nông. Hàng ngàn con quạ đậu kín trên cây đa, cây gạo gần đó, kêu vang khiến ai cũng khiếp sợ.
Nước lũ tràn vào chợ, rồi khi rút đi, đất cát bị bào mòn, khiến tay chân của những người đã chết thò lên khỏi mặt đất. Những người còn sống khi buộc phải đi qua con đường này thường nhìn thấy cảnh tượng kinh hoàng, như thể ma đói đang giơ tay đòi bắt họ. Những ai yếu bóng vía thường bỏ chạy trong hoảng loạn. Vì thế, câu chuyện “ma đói bắt người sống” đã lan truyền rộng rãi trong thời điểm đó.
Những bộ xương của người chết đói nằm chất đống
Cụ Trần Duy Hứa kể lại:
“Năm Ất Dậu, khi tôi vừa tròn 18 tuổi, một ngày nọ mẹ bảo tôi đi cùng ông Mã Phác, một lái buôn miền núi chuyên bán quế, xuống chợ Đức Cơ để mua muối. Chúng tôi chọn đi tắt qua cánh đồng xã Tây Giang để tránh con đường chính vì sợ gặp phải cướp và cũng để tránh cảnh tượng nhiều người chết đói nằm la liệt.
Khi đi ngang qua miếu âm hồn giữa cánh đồng, tôi sững người khi nhìn thấy cảnh ba mẹ con người ăn mày, vẫn thường đến xin ăn ở chợ huyện, giờ đây nằm ôm nhau chết ngay trước cửa miếu.
Khi đến chợ Đức Cơ, khung cảnh càng thêm đau lòng, người chết đói nằm la liệt từ ngoài cửa chợ đến bên trong. Sau khi mua muối xong, tôi quay lại chỗ ông Mã Phác ngồi bán quế, ông dẫn tôi đến hàng thịt bò và chọn mua một miếng thịt đã được thui vàng óng, trông vô cùng hấp dẫn.
Khi về đến nhà, ông Phác mượn dao thớt, nồi gang để nấu thịt. Trong lúc ông đang thái thịt bò ngoài bờ ao, mẹ tôi đi ra xem và gọi tôi vào trong nhà. Bà nói nhỏ:
“Con không biết đấy thôi, họ đang lừa mình. Miếng thịt bò mà ông Phác mua thực chất là thịt bắp chân của người chết. Nếu là thịt bò thật thì da sẽ dày và khó thái, đằng này thịt mềm, dễ thái và da mỏng dính. Đây chắc chắn là thịt người đã bị cắt ra rồi thui”.
Nghe mẹ nói vậy, tôi vội tìm cớ vào buồng, đóng chặt cửa và không dám ra ngoài. Khi thịt chín, ông Phác gọi tôi ra ăn, nhưng tôi nằm im giả vờ ngủ mà không dám trả lời.”
Kể đến đây, cụ Hứa đứng nhìn xa xăm về phía bờ sông, dường như ký ức đau buồn thời kỳ Ất Dậu lại ùa về trong lòng cụ.
Cụ cũng nhớ lại ngày 23/7/1945, khi Mặt trận Việt Minh và Chi bộ Đảng làng Trình Nhì tổ chức cuộc biểu tình tại chợ Huyện, tuyên truyền chống phát xít Nhật và chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa cướp chính quyền. Lúc đó, Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân “cướp” các kho thóc của Nhật để cứu đói. May mắn thay, vụ chiêm năm 1945 trúng mùa, nhưng sau đó lại xảy ra những cái chết thương tâm khác – không phải chết vì đói, mà chết vì bội thực và dịch bệnh.
Cụ Trần Duy Hứa nói thêm:
“Mặc dù số người chết vì ăn no không nhiều như chết đói, nhưng cũng rất đáng thương. Có những người sau khi được phát gạo hoặc gặt lúa về đã quá đói khát, họ rang gạo lên ăn hoặc ăn gạo sống. Sau khi ăn xong lại uống nhiều nước khiến bụng trương phềnh lên rồi chết. Một số khác thì ăn quá nhiều cơm và bội thực mà mất. Bên cạnh đó, môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề, dịch tả lan truyền khắp nơi, khiến nhiều người bị nhiễm bệnh và tử vong.”
Nạn đói năm 1945 ăn thịt người là một chương đen tối và đau thương trong lịch sử Việt Nam. Thảm họa này không chỉ là hậu quả của sự kết hợp giữa thiên tai, chiến tranh và những chính sách cai trị tàn nhẫn mà còn là minh chứng cho sự tuyệt vọng của con người trong cảnh khốn cùng. Từ những bi kịch đó, chúng ta nhận ra rằng việc bảo vệ quyền sống cơ bản của con người là vô cùng quan trọng và cần thiết, đặc biệt là trong những giai đoạn khủng hoảng. Những bài học từ quá khứ sẽ giúp chúng ta xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, nơi mà sự đói khát và tuyệt vọng không còn hiện diện.