Nguyễn An Ninh: Nhà Cách Mạng Tiên Phong và Trí Thức Yêu Nước
Nguyễn An Ninh là một nhà báo, nhà cách mạng nổi bật trong lịch sử Việt Nam, người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc. Với tầm nhìn xa và tư tưởng tiến bộ, ông không chỉ là một trí thức yêu nước mà còn là người lãnh đạo tiên phong của phong trào cách mạng đầu thế kỷ 20.
Nguyễn An Ninh là ai?
Tiểu sử Nguyễn An Ninh sinh ra trong một gia đình Nho học yêu nước ở Hóc Môn – Gia Định. Cha ông là Nguyễn An Khương và chú Nguyễn An Cư đều là những nhà Nho danh tiếng, đồng thời hành nghề thuốc Đông y tại Sài Gòn – Gia Định. Họ còn là bạn của nhiều chí sĩ yêu nước nổi tiếng. Mẹ ông, cụ Trương Thị Ngự xuất thân từ một gia đình danh giá ở Chợ Lớn và sau này được phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng.
Chân dung đồng chí Nguyễn An Ninh
Thuở nhỏ, Nguyễn An Ninh là một học sinh xuất sắc, ông được xem như thần đồng. Trước khi đến trường, ông được cha dạy chữ Hán. Năm 1910, ông học tiểu học tại Trường Taberd và sau đó theo học tại Trường Chasseloup-Laubat (nay là THPT Lê Quý Đôn) tại Sài Gòn, nơi ông tốt nghiệp hạng ưu năm 1916.
Sau khi nhận thấy y học không phù hợp với mình khi theo học Cao đẳng Y Dược Đông Dương, ông Nguyễn An Ninh chuyển sang học luật tại Trường Cao đẳng Pháp chính, thuộc Đại học Đông Dương.
Năm 1918, ông sang Pháp thi đỗ vào Đại học Sorbonne và chỉ sau hai năm đã hoàn thành chương trình cử nhân luật. Trong thời gian ở Pháp, Nguyễn An Ninh nghiên cứu các tài liệu cách mạng như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ông kết thân với các nhà cách mạng Việt Nam tại Pháp, hình thành nhóm “Ngũ Long An Nam” nổi tiếng cùng Nguyễn Ái Quốc, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền.
Nguyễn An Ninh và những đóng góp cho phong trào cách mạng
Sau khi tốt nghiệp, Nguyễn An Ninh trở về Sài Gòn và bắt đầu hoạt động cách mạng. Ông từ chối hợp tác với chính quyền thực dân và trở thành thủ lĩnh tinh thần của phong trào Thanh niên Nam Bộ. Những bài diễn thuyết của ông, như Chung đúc một nền học thức cho dân An Nam và Lý tưởng của thanh niên An Nam đã khơi dậy lòng yêu nước và thúc giục thanh niên tìm con đường cứu nước.
Sau cuộc gặp với Thống đốc Nam Kỳ, vào ngày 10 tháng 12 năm 1923, Nguyễn An Ninh cho ra mắt số đầu tiên của báo Tiếng Chuông Rè (La Cloche Fêlée) tại Sài Gòn. Ông tự mình sáng lập, viết bài, biên tập và tự bán báo.
Tiếng Chuông Rè (La Cloche Fêlée) của Nguyễn An Ninh
Tờ báo đã dấy lên tiếng chuông cảnh tỉnh người dân, vạch trần bản chất áp bức của chế độ thuộc địa tại Nam Kỳ. Dưới sự đàn áp của chính quyền thực dân, tờ báo chỉ xuất bản được 19 số trước khi buộc phải đình bản vào ngày 14 tháng 7 năm 1924.
Đầu năm 1925, Nguyễn An Ninh rời Sài Gòn đến Paris để đón cụ Phan Châu Trinh. Trong chuyến đi này, ông đã xuất bản cuốn sách Nước Pháp ở Đông Dương, tương tự tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc và gây tiếng vang lớn.
Dù bị cấm lưu hành ở Đông Dương, tác phẩm của Nguyễn An Ninh vẫn được tạp chí Europe đăng tải toàn văn tại Pháp. Trong một buổi diễn thuyết tại Paris, ông tuyên bố: “Tôi không phải cộng sản, nhưng tôi ủng hộ những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”.
Trở về nước, Nguyễn An Ninh cùng Phan Văn Hùm thành lập tổ chức Thanh niên Cao Vọng Đảng, một phong trào quần chúng yêu nước hoạt động bí mật tại Nam Kỳ. Tổ chức này thu hút hàng ngàn hội viên và được gọi là Hội kín Nguyễn An Ninh.
Ngày 26 tháng 11 năm 1925, Nguyễn An Ninh tái bản báo Tiếng Chuông Rè với số lượng in lên đến 5.000 bản. Đồng thời, ông tổ chức diễn thuyết tại nhiều nơi để kêu gọi thanh niên Nam Bộ tham gia phong trào cách mạng.
Mặc dù bị bắt giam vào ngày 24 tháng 3 năm 1926, Nguyễn An Ninh vẫn tiếp tục tổ chức hoạt động từ trong tù. Báo Tiếng Chuông Rè của ông tiếp tục đăng tải Tuyên ngôn Cộng sản từ số 53 đến số 60. Sau 10 tháng giam giữ, ông được trả tự do vào tháng 1 năm 1927. Tuy nhiên, báo Tiếng Chuông Rè phải đình bản ở số 62 và được thay thế bằng báo L’Annam, kéo dài đến năm 1928.
Vào tháng 8 năm 1927, Nguyễn An Ninh lại sang Pháp để tìm gặp Nguyễn Ái Quốc và nhờ sự giúp đỡ từ Đảng Cộng sản Pháp. Đến năm 1928, Nguyễn An Ninh về nước và tập trung vào việc tổ chức phong trào yêu nước tại Nam Kỳ. Thanh niên Cao Vọng Đảng phát triển mạnh với 7.000 hội viên, tạo nền tảng cho sự hình thành của Đảng Cộng sản Nguyễn An Ninh.
Những năm tháng đấu tranh và hy sinh của Nguyễn An Ninh
Trước sự phát triển của phong trào Hội kín, thực dân Pháp đã bắt đầu đàn áp mạnh mẽ. Ngày 8 tháng 5 năm 1929, Nguyễn An Ninh bị Tòa tiểu hình Sài Gòn kết án 3 năm tù giam và 5 năm mất quyền công dân vì tội chủ mưu thành lập Hội kín. Dù chống án, ông vẫn bị tuyên án vào tháng 7 năm 1929. Phong trào Thanh niên Cao Vọng Đảng cũng bị tổn thất nặng nề khi nhiều thành viên bị bắt giữ.
Bìa sách hội kín Nguyễn An Ninh
Trong suốt 3 năm bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn, từ tháng 7/1929 đến tháng 6/1930, Nguyễn An Ninh bị giam chung với Phạm Văn Đồng. Cả hai thường xuyên trao đổi về con đường cứu nước và nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin.
Dù trong tù, Nguyễn An Ninh vẫn xây dựng được một đường dây bí mật kết nối giữa nhà tù và bên ngoài, giúp đỡ rất nhiều cho các đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng sản và Xứ ủy Nam Kỳ. Vào ngày 3 tháng 10 năm 1931, ông được trả tự do và bắt đầu viết bài cho báo Trung Lập của Nguyễn Văn Tạo tiếp tục tham gia các hoạt động cách mạng.
Từ năm 1932 đến 1935, Nguyễn An Ninh cùng Nguyễn Văn Trân cải trang đi bán dầu cù là khắp các tỉnh Nam Kỳ, bí mật bàn giao lực lượng của Thanh niên Cao Vọng Đảng cho các tổ chức cộng sản.
Tháng 8 năm 1933, khi Paul Vaillant Couturier, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, ghé qua Sài Gòn, Nguyễn An Ninh đã tiếp đón và cung cấp tình hình đàn áp của chính quyền thuộc địa. Năm 1934, Nguyễn An Ninh còn phối hợp với Gabriel Péri – nghị sĩ Đảng Cộng sản Pháp – để điều tra đời sống thợ thuyền và tình trạng tù chính trị tại Khám Lớn.
Tháng 6 năm 1936, khi Chính phủ Bình dân Pháp được thành lập, Nguyễn An Ninh đã nhanh chóng đề xuất với Xứ ủy Nam Kỳ tổ chức Đông Dương đại hội, thổi bùng phong trào cách mạng quần chúng.
Ngày 29 tháng 7 năm 1936, trên tờ báo La Lutte, ông đăng bài kêu gọi tổ chức Đại hội Đông Dương và nhanh chóng lan tỏa với hàng trăm Ủy ban hành động ra đời. Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng 9 năm 1936, ông bị bắt giam lần thứ ba tại Khám Lớn Sài Gòn, nhưng sau đó được trả tự do vào ngày 5 tháng 11 cùng năm dưới sức ép từ các cuộc đấu tranh của quần chúng.
Năm 1937, Nguyễn An Ninh cùng Nguyễn Văn Nguyễn đi khắp miền Tây để vận động tài chính ủng hộ Đảng Cộng sản. Chính quyền thuộc địa vu cáo ông xúi giục quần chúng biểu tình và ngày 5 tháng 9 năm 1937, ông bị bắt tại nhà cụ Hội đồng Võ Công Tồn ở Bến Lức – Long An. Tòa án thực dân kết án ông 5 năm tù giam và 10 năm biệt xứ.
Sau khi chống án, ông chỉ phải chịu 2 năm tù và 5 năm biệt xứ. Đến ngày 18 tháng 2 năm 1939, ông mãn hạn tù và chuyển cả gia đình về Mỹ Tho, tuân theo lệnh biệt xứ khỏi Sài Gòn, tiếp tục tham gia các hoạt động yêu nước.
Vào tháng 4 năm 1939, Nguyễn An Ninh đứng tên ứng cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ với danh nghĩa báo Dân chúng. Tuy nhiên, đến tháng 9 cùng năm, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chính quyền thuộc địa Pháp tại Đông Dương đã siết chặt sự cai trị và tiến hành truy lùng các chiến sĩ cách mạng.
Ngày 4 tháng 10 năm 1939, Nguyễn An Ninh bị thực dân Pháp bắt giữ và bí mật kết án 5 năm tù giam, 10 năm biệt xứ với cáo buộc gây rối trị an. Ngày 10 tháng 12 năm 1940, ông bị đày ra Côn Đảo.
Vào tháng 9 năm 1940, sau khi Nhật Bản chiếm Đông Dương, chúng nhiều lần cử người ra Côn Đảo để thuyết phục Nguyễn An Ninh về lập Chính phủ thân Nhật nhưng dù đang bệnh nặng ông vẫn kiên quyết từ chối. Khi không thể lay chuyển được ông, Nhật đã hai lần tìm đến vợ ông, nhưng bà cũng khẳng khái từ chối mọi lời mời gọi.
Dưới sự tra tấn và điều kiện khắc nghiệt tại Côn Đảo, Nguyễn An Ninh qua đời vào ngày 14 tháng 8 năm 1943, khi mới 43 tuổi, trước khi Cách mạng tháng Tám thành công.
Di sản của Nguyễn An Ninh
Nguyễn An Ninh không chỉ là một trí thức được đào tạo bài bản mà còn là một nhà cách mạng có ảnh hưởng sâu rộng trong phong trào yêu nước suốt hai thập kỷ (1923-1943).
Ông là nhà văn hóa, nhà báo, nhà tư tưởng lớn của Việt Nam trong thời kỳ đầu thế kỷ XX. Ông đã để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu như Cao vọng của thanh niên An Nam (1923), Nước Pháp ở Đông Dương (1925) và nhiều công trình quan trọng khác.
Để tưởng nhớ và ghi nhận công lao to lớn của ông, ngày 1 tháng 8 năm 1980, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông danh hiệu liệt sĩ. Mẹ ông, cụ Trương Thị Ngự, cũng được truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng.
Hiện nay, tại phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, có một ngôi đền tưởng niệm Nguyễn An Ninh trên khu đất rộng 3.000 m². Tên của ông cũng được đặt cho nhiều trường học và đường phố trên khắp cả nước, từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm tôn vinh những cống hiến to lớn của ông đối với dân tộc.
Đền tưởng niệm Nguyễn An Ninh tại Q12 – Tp. Hồ Chí Minh
Cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn An Ninh là biểu tượng của lòng yêu nước, trí tuệ và ý chí kiên định. Những đóng góp của ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử cách mạng Việt Nam, trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ tiếp nối.
Tôn Thất Thuyết – Nhà yêu nước trong phong trào Cần Vương
Phùng Hưng Bố Cái Đại Vương – Anh Hùng Dân Tộc Vĩ Đại Thế Kỷ VIII