Nguyễn Tri Phương: Đại danh thần đầu tiên đánh đuổi giặc phương Tây
Khi nhắc đến ông Nguyễn Tri Phương, người ta nhớ ngay đến vị tướng tài ba đã lãnh đạo quân đội triều Nguyễn trong những trận đánh chống lại giặc phương Tây tại Đà Nẵng. Ông không chỉ nổi bật bởi tài năng chỉ huy, mà còn là người đầu tiên giành chiến thắng trước liên quân Pháp – Tây Ban Nha, một trong những thế lực mạnh nhất thời bấy giờ. Sự dũng cảm và chiến lược phòng thủ xuất sắc của ông đã viết nên những trang sử vàng, để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc.
Nguyễn Tri Phương là ai?
Nguyễn Tri Phương (1800-1873), tên thật là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu Đồng Xuyên, sinh ra tại làng Đường Long – Trí Long (thuộc huyện Phong Điền – Thừa Thiên Huế ngày nay). Ông là người con của mảnh đất xứ Huế, dấn thân vào con đường binh nghiệp và chinh chiến khắp ba miền Bắc – Trung – Nam.
Tuy nhiên, tài năng quân sự của ông chỉ thực sự được khẳng định và ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử qua cuộc kháng chiến chống lại liên quân Pháp – Tây Ban Nha tại Đà Nẵng giai đoạn 1858-1860.
Chân dung vị tướng tài ba Nguyễn Tri Phương
Theo TS Sử học Nguyễn Hữu Tâm – nguyên Giám đốc Thư viện Viện Sử học – điểm đặc biệt của Nguyễn Tri Phương là ông xuất thân từ một gia đình nông dân làm ruộng, khác với hầu hết các đại thần triều đình vốn có xuất thân từ gia đình khoa bảng hoặc quyền quý.
Anh hùng Nguyễn Tri Phương và chiến công đánh bại giặc phương Tây
Nguyễn Tri Phương dù không đi theo con đường khoa bảng nhưng với tài năng của mình đã xây dựng sự nghiệp rực rỡ, trở thành một đại danh thần của triều Nguyễn.
Năm 20 tuổi, ông bắt đầu làm Thư Lại tại huyện Phong Điền, sau đó nhờ sự thông minh và xuất chúng, ông được điều chuyển vào Bộ Hộ của triều đình Huế. Qua các triều Minh Mạng và Triệu Trị, Nguyễn Tri Phương liên tục được đề bạt giữ nhiều chức vụ quan trọng ở cả Nam Kỳ và Trung Kỳ, thăng đến hàm Thượng thư Bộ Công.
Phục vụ dưới ba triều vua, ông không chỉ là một vị quan quyền lực mà còn được giao trách nhiệm chỉ huy nhiều chiến dịch quân sự lớn. Trong 53 năm làm quan, Nguyễn Tri Phương chỉ huy 6 chiến dịch, trong đó có 5 lần ông giữ chức Tổng đốc quân vụ, tức Tổng chỉ huy mặt trận.
Ba trận chiến nổi bật nhất của ông là chỉ huy quân đội kháng chiến chống Pháp tại Đà Nẵng, Gia Định và bảo vệ thành Hà Nội. Dưới thời vua Tự Đức, ông đặc biệt được trọng dụng và tin tưởng, trở thành người dẫn đầu cuộc kháng chiến khi Pháp bắt đầu xâm lược tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng.
TS Sử học Nguyễn Hữu Tâm ghi nhận, vào ngày 30/8/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha do Đô đốc Rigault de Genouilly chỉ huy đã tập kết tại cửa vịnh Đà Nẵng với mục tiêu thực hiện mật lệnh: “chiếm lấy Tourane (Đà Nẵng) và giữ vững“. Lực lượng liên quân gồm 2.350 lính thủy đánh bộ, “lính bản xứ” gồm giáo dân phản động, thổ phỉ và dân phu Tàu, cùng với 16 chiến hạm hiện đại, trong đó chiến hạm Mémesis mang theo 50 khẩu đại bác với sức công phá mạnh.
Với ưu thế vượt trội về lực lượng và vũ khí, sáng ngày 1/9/1858, Rigault de Genouilly gửi tối hậu thư buộc quân ta tại Đà Nẵng phải đầu hàng trong vòng 48 giờ. Tuy nhiên, chỉ sau 2 giờ, quân Pháp đã bất ngờ khai hỏa tấn công hệ thống phòng thủ thủ công của triều Nguyễn, tập trung pháo kích các vị trí quan trọng như phía Tây – Nam Sơn Trà, đồn Nại Hiên Đông, Điện Hải và An Hải. Trong hai ngày 1 và 2/9, liên quân đã lần lượt chiếm giữ các đồn này.
Trước sức tấn công dữ dội của quân địch, quân Nguyễn tạm thời rút lui và lập phòng tuyến tại Hòa Vinh (Hòa Vang) nhằm ngăn chặn đà tiến của đối phương. Nhận được tin báo khẩn cấp, vua Tự Đức ngay lập tức điều quân từ Kinh đô Huế và các địa phương như Quảng Nam, Quảng Ngãi tới tiếp viện cho Đà Nẵng. Dân chúng các làng xung quanh cũng tích cực phối hợp, dựng rào chắn và cung cấp lương thực hỗ trợ quân triều đình.
Đồng thời, Tự Đức đã triệu tập Kinh lược sứ Nam Kỳ, võ tướng hàng đầu của triều Nguyễn, Nguyễn Tri Phương đảm nhận chức Tổng đốc quân vụ chỉ huy chiến trường Đà Nẵng. Nhận nhiệm vụ, Nguyễn Tri Phương lập tức triển khai một chiến lược phòng thủ khéo léo, tránh đối đầu trực tiếp với quân địch để hạn chế sức mạnh vũ khí hiện đại của chúng. Ông chọn cách bao vây quân Pháp – Tây Ban Nha, tiến hành phục kích, di dân vào nội địa, thực hiện chiến lược “vườn không nhà trống”, không để địch tiếp cận và thu được lương thực.
Chiến lược này đã khiến quân địch gặp nhiều khó khăn. Một sĩ quan Pháp ghi lại: “Đất chúng tôi chiếm được thì dân bỏ đi hết, không có gì để lấy, thậm chí không thấy cả gà.” Quân Pháp không thể tiến sâu vào nội địa, buộc phải dựa vào các chiến thuyền nhỏ để đánh vào các vị trí ven sông.
Vào tháng 11/1858, sử sách triều Nguyễn ghi lại, quân Pháp đưa 8 thuyền chiến tiến vào sông Nại Hiên nhưng bị quân ta dưới sự chỉ huy của Chu Phúc Minh, Phan Khắc Thận, Nguyễn Duy đánh trả quyết liệt, buộc phải tháo lui. Hai bên giao tranh dữ dội tại các đồn Hóa Khuê và Nại Hiên, cả hai phía đều chịu tổn thất nặng nề.
Súng thần công và vũ khí của quân đội nhà Nguyễn chống lại liên quân Pháp – Tây Ban Nha
Quân Pháp dồn lực tấn công nhằm chiếm các đồn lũy và thành An Hải, nhưng đến cuối năm 1858 họ vẫn không thể phá vỡ hệ thống phòng thủ kiên cố của triều đình Huế tại Đà Nẵng.
Với chiến lược lâu dài, Nguyễn Tri Phương kiên trì phương châm du kích, làm tiêu hao lực lượng địch. Ông trình vua Tự Đức rằng: “Giặc lấy chiến làm lợi, ta lấy thủ làm lợi. Xin lấy thủ làm chiến, xây thêm đồn lũy để dần tiến sát giặc“. Tự Đức đồng tình và nhấn mạnh việc tập trung vào tiến sát quân địch để dần đẩy lùi chúng.
Nhờ sự đoàn kết chặt chẽ giữa triều đình và quân dân, quân ta liên tục giành chiến thắng tại Nại Hiên, An Hải, Điện Hải, Phúc Ninh vào đầu năm 1859. Đến tháng 2-1859, quân Pháp chỉ để lại một đại đội và vài chiến hạm ở Đà Nẵng, phần lớn lực lượng đã chuyển vào Gia Định.
Quân ta tận dụng thời cơ, tổ chức tấn công mạnh mẽ và thu thắng lợi tại Thạch Thang, Thạc Gián và Hải Châu. Quân Pháp buộc phải điều quân từ Gia Định trở về cứu viện. Mặc dù cố gắng, đến hết năm 1859, quân Pháp vẫn không thể xuyên thủng hệ thống phòng thủ của Nguyễn Tri Phương tại Đà Nẵng.
Ngày 23/3/1860, sau 18 tháng bế tắc toàn bộ quân Pháp – Tây Ban Nha âm thầm rút khỏi Đà Nẵng. Theo TS Nguyễn Hữu Tâm, chiến thắng này đã chặn đứng âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của quân Pháp tại cửa biển Đà Nẵng, chứng tỏ quân địch không thể phát huy ưu thế về quân sự.
Di sản của Nguyễn Tri Phương để lại trong lịch sử
Chiến công ở Đà Nẵng (1858-1860) không chỉ nhờ lòng quả cảm của binh sĩ, mà còn nhờ tài thao lược của các tướng lĩnh triều Nguyễn, đặc biệt là Chủ tướng Nguyễn Tri Phương. Ông trở thành vị tướng đầu tiên chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống xâm lược từ phương Tây.
Với 53 năm phục vụ dưới ba triều vua Nguyễn, Nguyễn Tri Phương luôn giữ vững tinh thần tiết tháo và kiên quyết chống lại thực dân Pháp. Ông được tôn vinh qua nhiều tượng đài, đền thờ, và tên tuổi ông còn mãi trong lịch sử qua tên đường, trường học, bệnh viện trên khắp cả nước.
Nơi thờ tự danh nhân anh hùng Nguyễn Tri Phương tại tỉnh Đồng Nai
Nguyễn Tri Phương không chỉ là người mở đầu cho những chiến thắng chống lại giặc phương Tây mà còn là tấm gương sáng về lòng yêu nước, sự dũng cảm và tài thao lược quân sự. Chiến công tại Đà Nẵng của ông mãi là niềm tự hào của dân tộc, lưu danh sử sách và truyền cảm hứng cho thế hệ mai sau.
Chế thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu – Bậc nữ trung tài sắc