Nguyễn Trực – Lưỡng Quốc Trạng Nguyên đầu tiên của Việt Nam
Nguyễn Trực – vị Lưỡng Quốc Trạng Nguyên đầu tiên của Việt Nam – không chỉ nổi tiếng vì học vấn uyên thâm mà còn vì ý chí và bản lĩnh vượt lên mọi khó khăn của thời cuộc. Sinh ra trong giai đoạn biến động, ông từng bước chinh phục các đỉnh cao khoa cử, ghi dấu ấn trong lòng vua Lê và thậm chí được nhà Minh nể phục.
Vậy điều gì đã khiến ông trở thành nhân vật kiệt xuất, được hai triều đại công nhận và kính trọng? Hãy cùng tìm hiểu hành trình đầy thăng trầm của Nguyễn Trực để thấy rõ hơn giá trị mà ông để lại cho lịch sử dân tộc.
Nguyễn Trực là ai?
Nguyễn Trực, hiệu Sư Liêu, tự Công Dĩnh, quê gốc tại xã Bối Khê – huyện Thanh Oai – tỉnh Hà Tây (ngày nay là xã Tam Hưng – huyện Thanh Oai – ngoại thành Hà Nội). Ông sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống học vấn và nhiều đời đỗ đạt cao: ông nội là Tiến sĩ Nguyễn Bính, từng giữ chức Nho học huấn đạo giáo quan tại Quốc Tử Giám dưới triều Trần Hiến Tông, còn cha ông là Tiến sĩ Nguyễn Thời Trung, làm quan giáo thụ tại Quốc Tử Giám dưới thời vua Lê Thái Tông.
Hình ảnh minh họa Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Nguyễn Trực
Nguyễn Trực sinh ngày 16 tháng 5 năm Đinh Dậu (1417), nổi tiếng từ nhỏ nhờ trí thông minh vượt trội và tài hoa hiếm có. Lên 8 tuổi ông đã bắt đầu đi học, đến 12 tuổi đã có thể sáng tác thơ văn.
Vào năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), khi mới 17 tuổi Nguyễn Trực tham dự kỳ thi Hương và xuất sắc đỗ đầu (Giải Nguyên). Đến năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442), ở tuổi 25 ông tham gia kỳ thi Đình và đạt danh hiệu Đệ Nhất Giáp Tiến sĩ Đệ Nhất danh (Trạng Nguyên), trở thành Trạng Nguyên đứng đầu trong số 33 vị Tiến sĩ cùng khoa.
Nhờ thành tích xuất sắc này, ông được vua ban chức “Quốc Tử Giám thị thư” và danh hiệu á Liệt Khanh, đồng thời còn được ghi nhận là Lưỡng Quốc Trạng Nguyên (của cả Việt Nam và Trung Quốc). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vua Lê ban mũ áo Trạng Nguyên cho người đỗ đầu khoa thi. Đến nay, tên tuổi của Nguyễn Trực vẫn đứng đầu trên các bia Tiến sĩ tại Văn Miếu.
Nguyễn Trực – Bậc Trạng Nguyên kiệt xuất thời loạn
Theo sử sách ghi lại, Nguyễn Trực sinh ra trong thời kỳ hỗn loạn khi nhà Hồ đoạt ngôi nhà Trần. Cha ông, Nguyễn Thời Trung đã phải rời bỏ quê hương để lánh nạn ở Tiểu Đông Mộng, thuộc thôn Cây Thượng – xã Nghĩa Hương – huyện Quốc Oai – Hà Nội. Tại nơi đây, ông gặp và kết duyên với bà Đỗ Thị Chừng, người sau này sinh ra Nguyễn Trực tại am Long Khôi, núi Phật Tích, thuộc địa phận xã Sài Sơn – huyện Quốc Oai – Hà Nội. Khi còn nhỏ tuổi mà đã đạt thành tựu nổi bật, Nguyễn Trực được vua Lê Thái Tông ban yến tiệc tại vườn Quỳnh và cho cưỡi ngựa bạch dạo quanh kinh thành Thăng Long.
Ngày 3 tháng 5 năm 1442 cha ông qua đời, Nguyễn Trực phải về quê chịu tang. Năm 1444, dưới triều vua Lê Nhân Tông, ông được phong chức Triều nghi đại phu Hàn lâm viện học sĩ Vu kỵ úy. Không lâu sau, vua ban chức Hàn lâm viện thị giảng chi thập thị học sĩ và ngự tiền học sinh nhị cục tầm ban. Đến năm 1445, chức danh của ông được đổi thành Thiếu trung khanh đại phu Ngự sử Đài ngự sử thị Đô úy, nhưng ông đã khiêm nhường từ chối, khiến vua phải ra sắc dụ ba lần, ông mới nhận.
Năm Giáp Tuất (1454) mẹ ông qua đời, trên đường về chịu tang Nguyễn Trực thu hút đông đảo học sĩ từ khắp nơi đến học tập. Nhiều người trong số đó sau này trở thành các cựu nho và danh sĩ nổi tiếng được vua ban mũ áo, họ đều từng là học trò của ông.
Năm Đinh Sửu (1457), ngay sau khi mãn tang mẹ Nguyễn Trực được vua Lê Nhân Tông triệu về triều, phong làm đại diện tiếp sứ giả Hoàng Gián từ nhà Minh. Bằng khả năng ứng biến văn chương xuất sắc, ông đã khiến sứ thần nhà Minh nể phục. Ông còn sáng tác tập thơ “Lưu biệt” gồm 50 vần thơ gây ấn tượng sâu sắc.
Không lâu sau, ông được cử đi sứ sang Trung Quốc và tham gia kỳ thi Đình của nước này và đạt danh hiệu “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên”. Phó sứ Trịnh Khiết Tường cũng đạt danh hiệu Bảng nhãn, cả hai trở về nước với nhiều lời ca ngợi.
Để tôn vinh tài năng, vua Lê đã phong chức Thượng thư và ban tặng tám chữ vàng “Thành công danh Nam Bắc triều biên ngã” (Công danh lừng danh cả hai triều). Vua Lê đánh giá cao tài năng và đức độ của ông, đến mức Lê Nhân Tông từng vẽ hình ông để luôn nhắc nhở bản thân. Vua Lê Thánh Tông còn kính trọng ông đến nỗi đem bộ “Thiên Nam dư hạ tập” đến tận nơi ông sống để ông tiện phê duyệt. Nguyễn Trực cũng được giao trọng trách bình thơ văn của Lê Thánh Tông trước khi hội Tao Đàn được thành lập.
Nguyễn Trực với văn học và nghệ thuật
Trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật, Nguyễn Trực cũng để lại nhiều dấu ấn, dù hiện nay một số tác phẩm của ông đã thất truyền. Ông có tập thơ “Sư Liêu”, “Ngu nhàn tập”, “Kinh nghĩa chư văn tân tập” và bài “Xuân đài phú” cùng một số tác phẩm khác ghi lại trong “Toàn Việt thi lục” của Lê Quý Đôn.
Những tác phẩm còn lại cho thấy hình ảnh đa chiều của Nguyễn Trực: thời trẻ đầy hoài bão phò vua giúp nước với tinh thần trách nhiệm cao của một nhà nho chính đạo; nhưng đến cuối đời lại là một Nguyễn Trực mong muốn cuộc sống thanh bình nơi làng quê, thoát khỏi những mệt mỏi của chốn quan trường.
Nguyễn Trực trưởng thành khi đất nước bước vào giai đoạn xây dựng sau thời loạn lạc, trong thơ văn của ông luôn thể hiện mong muốn một xã hội yên bình với vua sáng tôi hiền và niềm vui trước cảnh đất nước thái bình.
Trong “Xuân đài phú”, ông mô tả Đài Xuân – biểu tượng của sơn hà xã tắc trong thời bình, ca ngợi một nền tảng quốc gia không cần sức mạnh vật chất mà chỉ dựa vào đạo đức và lễ nghĩa làm nền tảng vững chắc cho sự thịnh vượng:
“Chẳng cần đến trăm nghìn công lao nện đắp,
Chẳng phí đến muôn vàn của cải tiền tài.
Chỉ cần lễ nghĩa tạo hướng đi cho mưu lược,
Chỉ cần đạo đức làm cơ sở để tài bồi.”
Nguyễn Trực từ đó đã hình dung đến một xã hội lý tưởng được kiến tạo trên nền tảng của lễ nghĩa và đạo đức Nho giáo, đồng thời cũng nhấn mạnh trách nhiệm của những người “ở trên” cần phải quan tâm xây dựng Xuân đài, biểu tượng phản ánh sự trị vì của một triều đại:
Đài này cao quý biết bao,
Khi thời suy thoái, cảnh người tan tác!
Chẳng nỡ để đài xuân đổ nát,
Đời sau còn oán trách, chê cười…
Dưới thời Trần, đất nước suy yếu; thời nhà Hồ, “chính sự phiền hà” (Nguyễn Trãi) khiến “đài xuân đổ nát”, dân chúng chịu khổ đau, dẫn đến quốc gia rơi vào cảnh chiến tranh, loạn lạc. Lời văn của ông tuy có phần trách móc nhưng vẫn giữ sự ôn hòa, đủ để người đọc cảm nhận sự thay đổi thời cuộc và niềm vui khi triều đại mới mang đến thanh bình:
Bĩ rồi lại thái,
Vận nước xoay vần.
Đức vua Cao Hoàng, trị vì thiên hạ,
Gió lành thổi khắp, cả nước an vui.
Nền nghiệp hưng thịnh,
Hòa khí thắm tình.
Xây dựng đời vui, phong tục thanh nhã,
Tạo nên cảnh mới, đạo đức rạng ngời.
Cảm xúc tương tự cũng thể hiện trong bài văn sách của Nguyễn Trực, tác phẩm quan trọng khẳng định vị trí đứng đầu của ông trong kỳ thi Đình. Bài văn này cho thấy trí tuệ sâu sắc và khả năng lý luận chặt chẽ của ông, đặc biệt là những đoạn văn về quân tử và tiểu nhân. Đoạn dưới đây thể hiện rõ điều này:
Quân tử và tiểu nhân là hai mặt đối lập. Khi đạo quân tử mạnh lên, đạo tiểu nhân suy yếu và ngược lại. Như âm với dương, ngày với đêm không thể cùng song hành; như nước với lửa, thơm với thối không thể chung một nơi. Vì vậy, bậc lãnh đạo khi dùng người phải bình tâm, cân nhắc và thận trọng. Bệ hạ muốn đưa quân tử lên, tiểu nhân lùi lại thì cần gần gũi những bề tôi chính trực, để họ dẫn đường và giúp vua tránh sai lầm. Mạnh Tử đã nói: Để đất nước bình yên, vua phải là người chính trực, bởi khi vua có nhân, không ai không có nhân; khi vua có nghĩa, không ai không có nghĩa.
Qua đây, ta thấy rằng Nguyễn Trực rất coi trọng việc lựa chọn hiền tài. Đối với ông, để việc dùng người đạt hiệu quả, nhà vua cần chăm lo đạo đức, có nhân – trí – dũng và biết cách dùng người. Quan niệm của ông về một xã hội thịnh trị được xây dựng từ “vua sáng tôi hiền”, giống như ý tưởng “hiền tài là nguyên khí quốc gia” của Thân Nhân Trung.
Vấn đề Nguyễn Trực đặt ra vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lựa chọn và sử dụng nhân tài như phương pháp tối ưu đẩy lùi tiểu nhân, dù chưa đi sâu vào khía cạnh đào tạo hiền tài – điều sẽ được các học giả sau này tiếp tục phát triển.
Khi về già, Nguyễn Trực không còn giữ hoài bão tráng chí như thời trẻ. Những hình ảnh hăm hở ngày nào giờ mờ nhạt dần, thay vào đó là một Nguyễn Trực già yếu, đôi lúc trầm tư và ao ước được trở về quê hương để sống cuộc đời thanh bình, nhàn tản:
Lửa lòng Man Xúc tắt lâu rồi,
Thuyền lẻ xa xa lướt sóng trôi.
Núi thẳm, nước trong thêm thú vị,
Gió xuân, nắng ấm giúp niềm vui.
Say sưa, quên hết, riêng tuỳ thích,
Nhàn ẩn, càng hay, khỏi lụy đời!
Thương cảm tình ta như có ý:
Chim âu sà xuống tự phương trời.
Dù quê nhà không xa kinh thành Thăng Long, nhưng nguyện ước nhỏ bé và giản dị của ông về một cuộc sống bình yên ở thôn quê cuối cùng vẫn không thành.
Nguyên văn:
Bệnh thừa ân chiếu hứa lưu kinh,
Quy kế Sơn Tây nhất vị thành.
Hà nhật Sơn Tây sơn hạ lộ,
Thoa y, tiểu lạp khán xuân canh?
Bản dịch của tác giả sách Hoàng Việt thi văn tuyển:
Kinh thành dưỡng bệnh, được ơn vua,
Về nghỉ Sơn Tây chưa thể thành.
Khi nào đường núi Sơn Tây ấy,
Tơi nón dân cày ngắm cảnh xuân?
Nguyễn Trực đã qua đời khi còn giữ chức vụ tại kinh thành Thăng Long, nhưng niềm mong ước tha thiết được về lại quê hương nơi ông mơ một cuộc sống bình yên vẫn còn đó, đong đầy trong những vần thơ.
Đền thờ Trạng Nguyên Nguyễn Trực
Có thể thấy thơ văn của Nguyễn Trực thể hiện tâm hồn thanh cao của một con người không màng danh vọng, phú quý mà luôn hướng đến cuộc sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên.
Nhận xét về ông, Thân Nhân Trung đã viết: “Khai quốc Trạng Nguyên, văn chương lừng lẫy trong nước, nổi tiếng cả một đời. Triều nào cũng được an bài, giữ trọng trách văn hành, sống khiêm tốn, trước sau vẹn toàn”.
Vua Tự Đức trong “Việt sử tổng vịnh” cũng khen ngợi ông là một nhân tài hiếm có thời Lê. Học giả Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” lại nhận xét rằng thơ của Nguyễn Trực “có lời lẽ và ý tứ đều thanh nhã đáng quý”.
Dù qua bao nhiêu biến cố lịch sử, tên tuổi của Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Nguyễn Trực vẫn là niềm tự hào, là dấu son rực rỡ trong lịch sử nước nhà, vang danh xứ Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Trạng Nguyên Nguyễn Trực không chỉ là một học giả tài năng mà còn là hiện thân của tinh thần và trí tuệ Việt Nam. Với danh hiệu Lưỡng Quốc Trạng Nguyên, ông đã đặt nền móng cho những giá trị văn hóa và tri thức lâu dài, để lại tiếng vang cho các thế hệ sau. Tên tuổi của ông mãi mãi là niềm tự hào cho người Việt, một dấu son chói ngời trong lịch sử văn hiến của nước nhà.
Câu chuyện về Mạc Đĩnh Chi trở thành Lưỡng Quốc Trạng Nguyên nhờ “quay bài“