Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh: Hai con đường, một khát vọng

Đầu thế kỷ XX – trong bối cảnh nước mất, nhà tan – hai bậc anh hùng là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã đứng lên, mỗi người một hướng, một sách lược, nhưng cùng mang trong tim lý tưởng lớn: giành lại độc lập, đưa dân tộc bước vào thời đại mới. Một người chọn gươm súng làm ngọn cờ dựng nước, người kia lấy đèn sách làm đuốc khai dân trí. Hai con đường ấy dù khác biệt lại cùng hướng về một chân lý bất diệt: vì nước, vì dân, vì giống nòi.

Phan Bội Châu: Bạo động vũ trang vì độc lập dân tộc

Phan Bội Châu (1867-1940), tự Sào Nam, hiệu Thị Hán, là một bậc chí sĩ tiên phong trong trào lưu phục quốc đầu thế kỷ XX. Mang chí lớn khôi phục giang sơn, ông xem việc “đánh đuổi ngoại bang, cứu nước trước – cứu dân sau” là thiên chức thiêng liêng không thể thoái thác.

tiểu sử Phan Bội Châu

Chân dung Phan Bội Châu – chí sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX.

Với khát vọng vong thân vì nước, năm 1904, ông lập Duy Tân hội tại Trung Kỳ, ngầm kết giao hào kiệt, chiêu mộ thanh niên đồng chí hướng, nhằm khởi nghĩa vũ trang lật đổ thực dân Pháp. Không lâu sau, ông phát động phong trào Đông Du (1905-1908), đưa hào kiệt sang Nhật Bản mưu học tân thư, binh pháp, đồng thời vận động chính giới Nhật trợ giúp cách mạng An Nam.

Tuy nhiên, cơ trời chưa thuận. Trước áp lực từ Pháp, chính phủ Nhật đã trục xuất Phan Bội Châu cùng các lưu học sinh Việt Nam, khiến phong trào Đông Du đành lụi tàn. Không nhụt chí, ông chuyển sang hoạt động ở Trung Hoa, dốc tâm sáng lập Việt Nam Quang phục hội năm 1912. Mục tiêu của hội là kiến thiết một quốc gia Việt Nam Cộng hòa, độc lập – dân quyền – tiến bộ, sánh vai cường quốc năm châu.

Song, trong thời cuộc biến động, thế lực yếu kém, các cuộc khởi nghĩa do hội phát động phần nhiều bị đàn áp khốc liệt. Năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt tại Thượng Hải, rồi áp giải về nước giam lỏng tại Bến Ngự (Huế), cho đến khi từ trần năm 1940.

Tuy con đường ông chọn chưa thành đại nghiệp, nhưng chí khí kiên trung, lòng yêu nước son sắt và hành trạng phi thường của Phan Bội Châu đã hun đúc nên khí phách dân tộc, là tấm gương khai mở cho lớp lớp hậu thế noi theo trên hành trình giành lại non sông.

Phan Châu Trinh: Khai dân trí để chấn hưng quốc vận

Phan Châu Trinh (1872-1926), tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, là một nhà tư tưởng kiệt xuất, người mang trong tâm khảm ngọn lửa canh tân, quyết dùng ánh sáng tri thức để phá tan u mê, cứu vãn cơ đồ đã nghiêng đổ.

Khác với người đồng chí cũ Phan Bội Châu – vốn chủ trương “cứu quốc trước, khai hóa sau” – Phan Châu Trinh lại vững tin vào con đường “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, lấy giáo dục, dân quyền và pháp trị làm nền tảng canh tân quốc gia.

Theo ông, quốc nạn không chỉ nằm ở ngoại xâm mà còn nằm trong chính nội tâm người Việt – vốn còn mê mị, nặng hủ tục, thần quyền và lễ giáo cổ hủ. Bởi vậy, ông phản đối vũ trang khởi nghĩa vào thời điểm nhân dân chưa thức tỉnh. Với ông, muốn giành độc lập thực sự, dân tộc phải tự giác mà vươn lên từ trong trí tuệ, ý chí và đời sống sinh kế.

Phan Châu Trinh

Phan Châu Trinh – nhà tư tưởng canh tân, người mở đường khai dân trí.

Năm 1906, ông sang Pháp, tận mắt chứng kiến nền cộng hòa và văn minh Tây phương. Từ đó, ông dâng thỉnh nguyện thư lên chính phủ Pháp, yêu cầu thực hiện cải cách tại Đông Dương như mở rộng giáo dục, cải tổ hành chính, bảo vệ quyền lợi người bản xứ… Ông không chống Pháp theo lối bạo lực, mà chống sự cai trị bất công và ngu dân.

Dẫu chủ trương ôn hòa, nhưng lời văn Phan Châu Trinh lại bén như gươm, dứt khoát như chém đá – ông mạnh mẽ đả phá Nho giáo thủ cựu, phê phán vua quan phong kiến mục nát và kêu gọi người dân tự đứng dậy, tự khai sáng lấy mình. Những bài diễn thuyết vang vọng như lời chuông tỉnh thức, để lại ảnh hưởng sâu rộng đến phong trào Duy Tân và lớp thanh niên đầu thế kỷ XX.

Bị bắt, bị tù, rồi về nước trong cảnh bệnh hoạn nhưng chí khí Tây Hồ không suy suyển. Năm 1926, ông từ trần tại Sài Gòn, để lại muôn lời ai điếu và một đám tang quốc dân – minh chứng cho sức vang vọng của một trí giả yêu nước, lấy đạo khai hóa làm đuốc soi đường.

Dẫu không cầm gươm khởi nghĩa, Phan Châu Trinh vẫn là người tiên phong mở lối: “Muốn cứu nước, phải cứu dân trước; muốn cứu dân, phải dạy cho dân biết mình là ai.” Một con đường đầy lý tưởng, tĩnh tại mà hào sảng – như chính nhân cách và tầm nhìn của ông.

So sánh Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh: Hai lối rẽ cùng chung chí lớn

Giữa buổi loạn ly của dân tộc, khi vận nước ngả nghiêng trước làn sóng xâm lăng và xiềng xích thuộc địa, hai bậc hào kiệt là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã nổi lên như hai vì sao rực sáng trên bầu trời u tối. Tuy cùng mang khát vọng độc lập, dân chủ và canh tân quốc gia, song mỗi người lại chọn cho mình một lối đi riêng biệt, phản ánh hai khuynh hướng cứu nước tiêu biểu đầu thế kỷ XX.

Phan Bội Châu – người khởi xướng phong trào Đông Du, chủ trương hành động quyết liệt bằng con đường bạo động vũ trang và liên kết ngoại viện. Ông tin rằng muốn thoát khỏi ách nô lệ, dân tộc cần vùng lên giành lại chủ quyền bằng khí giới. Trong mắt ông, không thể đàm đạo cải cách khi gông cùm thực dân vẫn còn siết cổ đồng bào. Con đường ông đi là khẩn trương, khích động tinh thần yêu nước bằng máu và lửa, khơi dậy lòng can đảm, cổ vũ dân chúng vùng lên tự giải phóng.

Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh

Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh – hai con đường cứu nước song song đầu thế kỷ XX.

Ngược lại, Phan Châu Trinh chọn con đường ôn hòa, khai trí nhân dân để xây nền vững bền. Theo ông, dân tộc muốn trường tồn thì phải có căn gốc từ học vấn, dân quyền và đời sống hưng thịnh. Ông phản đối bạo lực và sự lệ thuộc vào ngoại bang, đồng thời kịch liệt phê phán chế độ quân chủ và những tàn dư của lễ giáo phong kiến. Ông cho rằng nếu không cải hóa được lòng người, thì dù có giành độc lập bằng gươm súng, quốc gia cũng khó mà hưng thịnh lâu dài.

Hai khuynh hướng – một lấy bạo động làm phương tiện, một đặt cải cách làm nền tảng – tưởng chừng đối lập nhưng thực chất lại là hai gọng kìm siết chặt cùng một ý chí lớn: cứu dân, dựng nước. Một người đánh vào ngoại lực, một người thức tỉnh nội tâm. Một đốt lửa nơi chiến địa, một thắp đèn giữa trường học.

Cuối cùng, lịch sử đã chứng minh rằng cả hai con đường đều để lại di sản quý báu. Nếu Phan Bội Châu là tiếng trống trận đầu tiên vang lên giữa đêm trường nô lệ, thì Phan Châu Trinh là tiếng chuông tỉnh thức vang vọng trong lòng nhân dân. Dẫu chưa gặp nhau trên phương pháp, hai cụ Phan đã đồng tâm nơi mục đích: làm rạng danh giống nòi và khôi phục non sông.

Đó chính là hai gương mặt sáng ngời của một thời đại u uất nhưng chan chứa hy vọng – hai tâm hồn lớn, hai con đường cứu nước, nhưng chỉ chung một tấm lòng vì dân vì nước không đổi thay.

Kết luận: Hai đỉnh núi dựng bóng dân tộc

Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh – hai vị tiên phong của phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX – đã viết nên những chương hào hùng trong sử Việt bằng hai phương cách đối lập nhưng không đối nghịch. Một người là lưỡi gươm mở đường giữa đêm đen nô lệ, người kia là ngọn đèn thắp sáng chân trời đổi mới. Dẫu con đường chưa đến đích, cả hai đều đã gieo hạt giống thức tỉnh vào lòng dân tộc – để rồi từ đó, những thế hệ sau tiếp bước dựng xây một Việt Nam tự chủ và vững mạnh.

Hai vị Phan – hai hướng đi – một tâm hồn lớn. Họ là hình ảnh của khí tiết, của nhân cách và của một thời đại không khuất phục. Chính từ sự song hành giữa chiến đấu và khai hóa ấy, mà con đường độc lập của dân tộc mới dần hiện rõ hình hài.

123b