Sấm Trạng Trình 10 phần chết 7 còn 3 – Nguyễn Bỉnh Khiêm

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và lời sấm đã trở thành biểu tượng của trí tuệ và tài tiên tri trong lịch sử Việt Nam. Không chỉ được biết đến là một nhà thơ tài ba, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn để lại dấu ấn sâu sắc với những lời Sấm Ký đầy huyền bí. Sấm Trạng Trình không chỉ dự đoán chính xác những biến cố lớn mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược của một bậc thầy thông thái, góp phần định hình tư duy và văn hóa dân tộc qua nhiều thế kỷ.

Tổng quan về Sấm Ký của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)

Tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), nổi tiếng với phẩm cách đạo đức, tài năng văn thơ và năng lực tiên tri về các biến động lịch sử Việt Nam. Sinh năm Tân Hợi dưới triều vua Lê Thánh Tông, ông lớn lên tại làng Trung Am – huyện Vĩnh Lại – Hải Dương (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo – Hải Phòng).

Xuất thân từ một gia đình danh giá, cha ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định, mẹ ông là Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lân. Từ nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã theo học bảng nhãn Lương Đắc Bằng tại Thanh Hóa. Nhờ trí thông minh và sự chăm chỉ, ông nhanh chóng nổi bật trong giới học thuật.

Đến năm 1535, khi đã 45 tuổi, ông thi đỗ Trạng Nguyên dưới triều vua Mạc Đăng Doanh và được phong chức Tả Thị lang Đông các Học sĩ, tước Trình Tuyền hầu. Vì vậy dân gian gọi ông là Trạng Trình.

Sau 7 năm làm quan, ông từ chức do bất mãn với triều đình và trở về quê năm 1542, dựng am Bạch Vân, lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ và mở trường dạy học bên sông Tuyết. Ông được học trò kính trọng gọi là “Tuyết Giang Phu tử”. Học trò của ông gồm nhiều người nổi danh như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Giáp Hải…

Ông mất năm 1585, hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang có sự tham dự của quan triều đình và được vua Mạc truy phong Thái phó Trình Quốc công, thể hiện sự tôn kính của triều đình với Trạng Trình.

Tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tượng đài và chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm

Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại nhiều tác phẩm giá trị như Bạch Vân am thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi và Bạch Vân Gia Huấn, tất cả chứa đựng triết lý nhân sinh và đạo lý xử thế. Ông được biết đến là nhà tiên tri số một của Việt Nam với các lời Sấm Ký nổi tiếng.

Tương truyền, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa ra những lời khuyên cho các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Đáng chú ý, ông khuyên Nguyễn Hoàng đi về phía Nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, giúp Nguyễn Hoàng lập nghiệp lớn.

Nhà Mạc khi sắp thất thế cũng nhận lời khuyên “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” và giữ được đất này gần 80 năm. Ông còn khuyên Trịnh Kiểm “giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”, giúp họ Trịnh cầm quyền nhưng vẫn giữ danh nghĩa thờ vua Lê.

Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét về ông: “Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở.” La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp cũng tôn vinh ông qua bài thơ Quá Trình tuyền mục tự, còn tiến sĩ Vũ Khâm Lân ca ngợi danh tiếng ông như “núi Thái sơn, sao Bắc Đẩu”.

Thái độ đối với Sấm Ký

Trong quan điểm của tôi, nhiệm vụ của thế hệ sau là sưu tầm, hiệu đính và chú thích các tác phẩm của tiền nhân để bảo tồn giá trị văn hóa. Công việc này đòi hỏi sự trung thực và khách quan, thể hiện đúng những gì đã có và ghi chép một cách chính xác.

Tôi hy vọng sẽ có nhóm người chuyên nghiên cứu các bản Nôm và Quốc ngữ. Cá nhân tôi chỉ có thể nghiên cứu một số bản Quốc ngữ trong khả năng của mình. Dù kiến thức và tài liệu có hạn, tôi cố gắng làm hết sức để lưu giữ di sản văn hóa của tổ tiên và cung cấp thông tin hữu ích cho độc giả.

Nguyễn Bỉnh Khiêm, với tài thơ văn và sự thông thái, đã để lại những sấm ký mang ý nghĩa lớn. Những lời sấm này không phải là giai thoại mà có mối liên hệ chặt chẽ với lịch sử, như câu chuyện về Nguyễn Hoàng và lời khuyên nổi tiếng của Trạng Trình. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sấm ký chưa được chú trọng nhiều do những lo ngại về các cáo buộc mê tín và tuyên truyền.

Việc phủ nhận giá trị của sấm ký vì cho rằng chúng bị chỉnh sửa là quá vội vàng. Những bản sấm ký, dù có thể có phần thêm thắt sau này, vẫn chứa đựng các thể loại thơ ca cổ, từ lục bát đến ngũ ngôn và thất ngôn. Thơ lục bát đã xuất hiện trong ca dao và các tác phẩm cổ, chứng tỏ rằng thể thơ này đã tồn tại từ lâu.

Sự thật là, cần có một cái nhìn cân bằng: không nên phủ nhận hoàn toàn hay dễ dàng chấp nhận sấm ký mà cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, tìm hiểu để nhận ra giá trị thực sự của chúng.

Sấm Trạng Trình Toàn Tập – Nguyễn Bỉnh Khiêm

Sấm Trạng Trình Toàn Tập – Nguyễn Bỉnh Khiêm

500 câu Sấm Trạng Trình

Vận lành mừng gặp tiết lành

Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu

Một câu là một nhiệm màu

Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

 

Trải vì sao, mây che Thái Ất

Thủa cung tay, xe nhật phù lên

Việt Nam khởi tổ xây nền

Lạc Long ra trị đương quyền một phương

Thịnh suy bĩ thái lẽ thường

Một thời lại một nhiễu nhương nên lề

Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ

Mở bản đồ rủ áo chấp tay

Ngự đao phút chốc đổi thay

Thập bát tử rày quyền đã nổi lên

 

Ðông A âm vị nhi huyền

Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh

Chấn cung hiện nhật quang minh

Sóng lay khôn chống trường thành bền cho

Ðoài cung vẽ rạng trăng thu

Ra tay mở lấy Đế đô vạn toàn

 

Sáng cửu thiên, ám vầng hồng nhật

Dưới lẫn trên, ăn (năng) vẫn uống quen

Sửa sang muôn việc cầm quyền

Ngồi không ai dễ khẳng nhìn giúp cho

 

Kìa liệt vương khí hư đồ ủng

Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn

Trời sinh ra những kẻ gian

Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài

 

Áo vàng ấm áp đà hay

Khi sui đấp núi khi say xây thành

Lấy đạt điền làm công thiên hạ

Ðược mấy năm đất lở giếng mòn

Con yết ạch ạch tranh khôn

Vô già mở hội mộng tôn làm chùa

Cơ trời xem đã mê đồ

Ðã đô lại muốn mở đô cho người

Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn

Suốt vạn dân cừu giận oán than

Dưới trên dốc chí lo toan

Những đua bán nước bán quan làm giàu

Thống rủ nhau làm mồi phú quí

Mấy trung thần có chí an dân

Ðua nhau làm sự bất nhân

Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non

Dư đồ chia xẻ càn khôn

Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau

Vội sang giàu giết người lấy của

Sự có chăng mặc nọ ai đôi

Việc làm thất chính tơi bời

Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ

Xem tượng trời đã giơ ra trước

Còn hung hăng bạc ngược quá xưa

Cuồn phong cả sớm liền trưa

Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề

Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết

Ðể vạn dân dê lại giết dê

 

Luôn năm chật vật đi về

Âm binh ở giữa nào hề biết đâu

 

Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng

Cũng một lòng trời chống khác nào

 

Xem người dường vững chiêm bao

Nào đâu còn muốn ước ao thái bình

 

Một góc thành làm tâm chứng quỷ

Ðua một lòng ích kỷ hại nhân

Bốn phương rời rỡ hồng trần

Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần

 

Tiếc là những xuất dân làm bạo

Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau

Nhân danh trọn hết đâu đâu

Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê

 

Hùm già lạc dấu khôn về

Mèo non chi chí tìm về cố hương

Chân dê móng khởi tiêu tường

Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình

 

Nội thành ong ỏng hư kinh

Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang

Bở mồ hôi Bắc giang tái mã

Giửa hai xuân bỗng phá tổ long

Quốc trung kinh dụng cáo không

Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng

 

Gà đâu sớm gáy bên tường

Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không

Thủy binh cờ phất vầng hồng

Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng

 

Ðứng hiên ngang đố ai biết trước

Ấy Bắc binh sang việc gì chăng?

Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi

 

Chưa từng thấy đời này sự lạ

Bổng khiến người giá họa cho dân

Muốn bình sao chẳng lấy nhân

Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày

 

Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán

Ðúc tiền ra bán tước cho dân

Xun xoe những rắp cậy quân

Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công

 

Máy hóa công nắm tay dễ ngỏ

Lòng báo thù ai dễ đã nguôi

Thung thăng tưởng thấy đạo trời

Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra

 

Cát lầm bốn bể can qua

Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về

Quân hùng binh nhuệ đầy khe

Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời

 

Bấy giờ càng khốn than ôi

Quỉ ma trật vật biết trời là đâu?

Thương những kẻ ăn rau ăn giới

Gặp nước bung con cái ẩn đâu

 

Báo thù ấy chẳng sai đâu

Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn

Xin những kẻ hai lòng sự chúa

Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân

Cho nên phải báo trầm luân

Ai khôn mới được bảo thân đời này

 

Nói cho hay khảm cung rồng dấy

Chí anh hùng xem lấy mới ngoan

Chử Rằng lục thất nguyệt gian

Ai mà nghĩ được mới gan anh tài

 

Hễ nhân kiến đã dời đất cũ

Thì phụ nguyên mới chổ binh ra

 

Bốn phương chẳng động can qua

Quần hùng các xứ điều hòa làm tôi

Bấy giờ mở rộng qui khôi

Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

 

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Hoàng phúc xưa đã định tây phong

Làu làu thế giới sáng trong

Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương

 

Rỏ sinh tài lạ khác thường

Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài

 

Xem ý trời có lòng đãi thánh

Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai

Chọn đầu thai những vì sao cả

Dùng ở tay phụ tá vương gia

 

Bắc phương chính khí sinh ra

Có ông Bạch sĩ điều hòa hôm mai

 

Song thiên nhật rạng sáng soi

Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường

 

Ðời này thánh kế vị vương

Ðủ no đạo đức văn chương trong mình

Uy nghi trạng mạo khác hình

Thác cư một gốc kim tinh phương đoài

 

Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi

Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân

Binh thơ mấy quyển kinh luân

Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu

 

Ở đâu đó anh hùng hẳn biết

Xem sắc mây đã biết thành long

Thánh nhân cư có thụy cung

Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

 

Lại dặn đấng tú nam chí cả

Chớ vội vàng tất tả chạy rong

Học cho biết lý kiết hung

Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi

Hễ trời sinh xuống phải thì

Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông

 

Kìa những kẻ vội lòng phú quí

Xem trong mình một thí đều không

Ví dù có gặp ngư ông

Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng

 

Xin khuyên đấng thời trung quân tử

Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh

Âm dương cơ ngẩu ngô sinh

Thái nhâm thái ất trong mình cho hay

 

Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng

Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh

Võ thông yên thủy thần kinh

Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ

 

Chớ vật vờ quen loài ong kiến

Biết ray tay miệng biếng nói không

Ngỏ hay gặp hội mây rồng

Công danh sáng chói chép trong vân đài

Bấy giờ phỉ sức chí trai

Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình

Nặng lòng thật có vĩ kinh

Cao tay mới gẩm biết tình năm nao

 

Trên trời có mấy vì sao

Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi

Nước Nam thường có thánh tài

Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường

 

So mấy lời để tàng kim quỉ

Chờ hậu mai có chí sẽ cho

Trước là biết nẽo tôn phò

Sau là cao chí biết lo mặc lòng

 

Xem đoài cung đến thời bất tạo

Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau

Nguôi lòng tham tước tham giàu

Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân

 

Trẻ con mang mệnh tướng quân

Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường

 

Ai lấy gương vua U thủa trước

Loạn ru vì tham ngược bất nhân

Ðoài phương ong khởi lần lần

Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn

 

Man mác một đỉnh Hoành Sơn

Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

Ấy là những binh thù Thái Thái

Lòng trời xui ai nấy biết ru?

 

Phá điền dầu khỉ cuối thu

Tái binh mới động thập thò liền sang

Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết

Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa

 

Lưu tinh hiện trước đôi thu

Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh

Loài bất bình tranh mạnh hung hăng

 

Thành câu cá, lửa tưng bừng

Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm

Chiến trường chốn chốn cát lầm

Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

 

Sang thu chín huyết hồng tứ giả

Noi đàng dê tranh phá đôi nơi

Ðua nhau đồ thán quần lê

Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương

 

Kẻ thì phải thủa hung hoang

Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan

Kẻ thì mắc thủa hung tàn

Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình

 

Muông vương dựng ổ cắn tranh

Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành

Bời bời đua mạnh tranh giành

Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày

 

Bể thanh cá phải ẩn cây

Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù

Nào ai đã dễ nhìn U

Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn

 

Cây bay lá lửa đôi ngàn

Một làng còn mấy chim đàn bay ra

Bốn phương cùng có can qua

Làm sao cho biết nơi hào bảo thân

 

Ðoài phương thực có chân nhân

Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người

Tìm cho được chốn được nơi

Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình

 

Bốn bề núi đá riểu quanh

Một đường tiểu mạch nương mình dấy an

Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc

Tránh cho xa kẻo mắc đao binh

 

Bắc kinh mới thật đế kinh

Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào

Chim hồng vỗ cánh bay cao

Tìm cho được chốn mới vào thần kinh

 

Ai dễ cứu con thơ sa giếng

Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau

Vạn dân chịu thủa u sầu

Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho

 

Cấy cày thu đãi thời mùa

Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai

Nhân ra cận duyệt viễn lai

Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm

 

Xem tượng trời biết đường đời trị

Gẩm về sau họ Lý xưa nên

 

Giòng nhà để lấy dấu truyền

Gẩm xem bốn báu còn in đời đời

 

Thần qui cơ nổ ở trời

Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường

 

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Sông Bảo Giang thiên định ai hay

 

Lục thất cho biết ngày dài

Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê

 

Có thầy nhân thập đi về

Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh

 

Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp

Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời

Ra tay điều chỉnh hộ may

Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân

 

Lọ là phải nhọc kéo quân

Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về

 

Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng

Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh

Ân trên vũ khí vân hành

Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân đài

 

Bản đồ chảng sót cho ai

Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn

Vững nền vương cha truyền con nối

Dõi muôn đời một mối xa thư

 

Bể kình tâm lặng bằng tờ

Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân

Âu vàng khỏe đặt vững chân

Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

 

Vừa năm nhâm tý xuân đầu

Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời

Quyển vàng mở thấy sấm trời

Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian

 

Một thời có một tôi ngoan

Giúp trong việc nước gặp an thái bình

Luận chung một tập kim thời

Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi

 

Trượng phu có chí thời coi

Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng

 

Tài nầy nên đấng vẻ vang

Biết chừng đời trị biết đường đời suy

 

Kể từ nhân đoản mà đi

Số chưa gặp thì biết hòa chép ra

 

Tiếc thay hiền sĩ bao già

Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công

 

Thử cho tay giúp ra dùng

Tài này so cùng tài trước xem sao

 

Trên trời kể chín tầng cao

Tay nghe bằng một ti hào biết hay

Hiềm vì sinh phải thời này

Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời

 

Hợp đà thay thánh nghìn tài

Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời

Nói ra thì lậu sự đời

Trái tai phải lụy tài trai khôn luần

 

Nói ra am chúa bội quân

Ðương thời đời trị xoay vần được đâu

Chờ cho nhân đoản hết sau

Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn

 

Trời xui những kẻ ắt gian

Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay

Vua nào tôi ấy đã bày

Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn

 

Ðua nhau bội bạn nghịch vi

Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay

 

Tiếc tài gẩm được thời hay

Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng

 

Tài trai có chí anh hùng

Muốn làm tướng súy lập công xưng đời

 

Khá xem nhiệm nhặt tội trời

Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng

 

Ði tìm cho đến đế cung

Rấp phù xuất lực đế cung được toàn

 

Bảo nhau cương kỷ cho tường

Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài

 

Chờ cho động đất chuyển trời

Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng

 

Còn bên thì náu chưa xong

Nhân lực cướp lấy thiên công những là

 

Ðời ấy những quỉ cùng ma

Chảng còn ở thật người ta đâu là

 

Trời cao đất rộng bao xa

Làm sao cho biết cửa nhà đế vương

Dù trai ai chửa biết tường

Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này

 

Ý ra lục thất gian nay

Thời vận đã định thời nầy hưng vương

Trí xem nhiệm nhặt cho tường

Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy

 

Vua ngự thạch bàn xa thay

Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng

Gà kêu vượn hót vang lừng

Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò

 

Nhân dân vắng mạt bằng tờ

Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay

Vua còn cuốc nguyệt cày mây

Phong điều vũ thuận thú rày an dân

 

Phong đăng hòa cốc chứa chang

Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây

Chính cung phương khảm vần mây

Thực thay thiên tử là nay trị đời

 

Anh hùng trí lượng thời coi

Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi

Tìm lên đến thạch bàn khê

Có đất sinh thánh bên kia cuối làng

 

Nhìn đi nhìn lại cho tường

Dường như chửa có sinh vương đâu là

Chảng tìm thì đến bình gia

Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình

 

Nhìn xem phong cảnh cũng xinh

Tả long triều lại có thành đợt vây

Hửu hổ uấn khúc giang này

Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai

 

Ở xa thấy một con voi

Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu

Ấy điềm thiên tử về chầu

Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời

 

Song thiên nhật nguyệt sáng soi

Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu

Ðến đời thịnh vượng còn lâu

Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm

Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam

Muốn làm tướng súy thì xem trông này
________

Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn

Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn

Tiền sinh cha mẹ đà cách trở

Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn

 

Kìa cơn gió thổi lá rung cây

Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây

Tan tác kiến kiều an đất nước

Xác xơ cổ thụ sạch am mây

 

Sơn lâm nổi sóng mù thao cát

Hưng địa tràng giang hóa nước đầy

Một gió một yên ai sùng bái

Cha con người Vĩnh Bảo cho hay

 

Con mùng búng tít con quay

Vù vù chong chóng gió bay trên đài

Nhà cha cửa đóng then cài

Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân

 

Tiếc tám lạng thương nửa cân

Biết rằng ai có du phần như ai

Bắt tay nằm nghỉ dông dài

Thương người có một lo hai phận mình

 

Canh niên tân phá

Tuất hợi phục sinh

Nhị Ngũ dư bình

Long hổ xà đầu khởi chiến tranh

 

Can qua tứ xứ loạn đao binh

Mã đề dương cước anh hùng tận

Thân dậu niên lai kiến thái bình

 

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu

Có một đàn xà đánh lộn nhau

Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng

Lợn kia làm quái phải sai đầu

Chuột nọ lăm le mong cản tổ

Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu

Hùm ở trên rừng gầm mới dậy

Tìm về quê củ bắt ngựa tàu

 

Cửu cửu kiền khôn dĩ định

Thanh minh thời tiết hoa tàn

Trực đáo dương đầu mã vĩ

Hồ binh bát vạn nhập trường an

 

Bảo Giang thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành

 

Lê dân bảo bảo noản

Tứ hải lạc âu ca

 

Dục đức thánh nhân hương

Qua kiều cư Bắc phương

 

Danh vi Nguyễn gia tử

Kim tịch sinh ngưu lang

 

Thượng đại nhân bất nhân

Thánh ất dĩ vong ân

 

Bạch hổ kim đai ấn

Thất thập cổ lai xuân

 

Bắc hữu kim thành tráng

Nam tạc ngọc bích thành

Hỏa thôn đa khuyển phệ

Mục giả dục nhân canh

 

Phú quí hồng trần mộng

Bần cùng bạch phát sinh

Anh hùng vương kiếm kích

Manh cổ đổ thái bình

 

Nam Việt hửu Ngưu tinh

Quá thất thân thủy sinh

Ðiạ giới sĩ vị bạch

Thủy trầm nhi bắc kinh

 

Kỷ mã xu dương tẩu

Phù kê thăng đại minh

Trư thử giai phong khởi

Thìn mão xuất thái bình

 

Phân phân tùng Bắc khởi

Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh

Bảo sơn thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành

 

Thủy trung tàng bảo cái

Hứa cập thánh nhân hương

Mộc hạ châm châm khẩu

Danh thế xuất nan lương

 

Danh vi Nguyễn gia tử

Tinh bản tại ngưu lang

Mại dử lê viện dưỡng

Khởi nguyệt bộ đại giang

 

Hoặc kiều tam lộng ngạn

Hoặc ngụ kim lăng cương

Thiên dử thần thực thụy

Thụy trình ngũ sắc quang

 

Kim kê khai lựu điệp

Hoàng cái xuất quí phương

Nhân nghĩa thùy vi địch

Ðạo đức thực dữ đương

 

Tộ truyền nhị thập ngủ

Vận khải ngủ viên trường

Vận đáo dương hầu ách

Chấn đoài cương bất trường

 

Quần gian đạo danh tự

Bách tính khổ tai ương

Can qua tranh đấu khởi

Phạm địch tánh hung hoang

 

Ma vương sát đại quỉ

Hoàng thiên tru ma vương

Kiền khôn phú tai vô lương

Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng

 

Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết

Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân

Ta hồ vô phụ vô quân

Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành

10 câu cuối Sấm Trạng Trình

Ðoài phương phước điạ giáng linh

Cửu trùng thụy ứng long thành ngủ vân

Phá điền thiên tử giáng trần

Dũng sĩ nhược hai mưu thần như lâm

 

Trần công nai thị phúc tâm

Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du

Tướng thần hệ xuất y chu

Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành

 

Hiệu xưng thiên hạ thái bình

Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia

Bản khác

CẢM ĐỀ

Thanh nhàn vô sự là Tiên,

Năm hồ phong nguyệt nổi thuyền buông chơi.

Cơ Tạo Hóa, phép đổi dời,

Đầu non mây khói tỏa,

Mặt nước cánh buồm trôi.

Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,

Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh Trời.

Tuổi già thua kém bạn,

Văn chương gởi lại đời.

Dở hay nên tự lòng người cả,

Nghiên bút soi hoa chép mấy lời.

Bí truyền cho con cháu,

Dành hậu thế xem chơi.

SẤM KÝ

Nước Nam từ họ Hồng bàng,

Biển dâu cuộc thế, giang san đổi dời.

Từ Đinh Lê Lý Trần thuở trước,

Đã bao đời ngôi nước đổi thay.

Núi sông Thiên định đặt bày,

Đồ thơ mấy quyển, xem nay mới rành.

Kìa kìa gió thổi lá rung cây,

Rung Bắc rung Nam, Đông tới Tây.

Tan tác kiến kiều an đất nước,

Xác xơ cổ thụ sạch am mây.

Lâm giang nổi sóng mù thao cát,

Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.

Một ngựa một yên ai sùng bái,

Nhắn con nhà Vĩnh Bảo cho hay.

Tiền ma bạc quỉ trao tay,

Đồ Môn Nghệ Thái dẫy đầy can qua.

Giữa năm hai bảy mười ba,

Lửa đâu mà đốt Tám Gà trên mây.

Cửu cửu Càn Khôn dĩ định,

Thanh minh thời tiết hoa tàn.

Trực đáo dương đầu mã vĩ,

Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.

Nực cười những kẻ bàng quan,

Cờ tan lại muốn toan đường đá xe.

Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh,

Can qua xứ xứ khởi đao binh.

Mã đề dương cước anh hùng tận,

Thân Dậu niên lai kiến thái bình.

Thần Kinh Thái Ất suy ra,

Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn.

Ngày thường xem thấy quyển vàng,

Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi.

Bởi Thái Ất thấy lạ đời,

Ấy thuở Sấm Trời vô giá thập phân.

Phú quí hồng trần mộng,

Bần cùng bạch phát sinh.

Hoa thôn đa khuyển phệ,

Mục giả dục nhơn canh.

Bắc hữu Kim Thành tráng,

Nam hữu Ngọc Bích Thành.

Phân phân tùng bách khởi,

Nhiễu nhiễu xuất đông chinh.

Bảo giang Thiên Tử xuất,

Bất chiến tự nhiên thành.

Cơ Tạo Hóa phép mầu khôn tỏ,

Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.

Thấy Sấm từ đây chép vào,

Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

Sấm Trạng Trình không chỉ là những lời tiên tri được ghi lại mà còn là di sản quý giá, thể hiện tầm nhìn sâu sắc và tinh thần yêu nước của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Những lời sấm này tiếp tục là nguồn cảm hứng và đề tài nghiên cứu sâu rộng, khẳng định vị trí độc tôn của ông trong lịch sử và văn hóa Việt Nam.

Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938