Phan Bội Châu: Nhà chí sĩ mưu cầu độc lập dân tộc
Phan Bội Châu – bậc chí sĩ tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX, là người đặt nền móng cho Duy Tân hội và Đông Du vận. Từ một cậu bé thông minh xứ Nghệ đến người mưu cầu độc lập cho nước Nam, hành trình của ông là một khúc tráng ca kiên cường và đầy máu lệ.
Tiểu sử Phan Bội Châu
Phan Bội Châu, húy Phan Văn San (潘文珊), chào đời ngày 26 tháng Chạp năm Đinh Mão (tức 1867) tại làng Đan Nhiễm, tổng Xuân Liễu, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An – mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi hun đúc khí cốt của bao bậc anh hùng hào kiệt.
Thân sinh ông là Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn – cả hai đều là người thâm nho, trọng học. Ngay từ thuở niên thiếu, Phan Bội Châu đã lộ rõ tư chất thông minh mẫn tiệp. Mới sáu tuổi đã thuộc làu Tam Tự Kinh sau ba ngày đèn sách, bảy tuổi đã đọc hiểu Luận Ngữ, đến mười ba tuổi thì đỗ đầu huyện trong kỳ khảo thí.
Chân dung nhà cách mạng Phan Bội Châu.
Thuở thiếu thời, chí lớn đã manh nha. Năm mười bảy tuổi, ông viết hịch “Bình Tây Thu Bắc” – lời hịch phản kháng quân Pháp – rồi treo nơi cổ thụ đầu làng, dấy lên hào khí kháng ngoại xâm. Đến tuổi mười chín (1885), ông cùng đồng hữu Trần Văn Lương lập nên đoàn “Sĩ tử Cần Vương”, tập hợp hơn sáu mươi hương sĩ, mang chí hướng phù vua cứu nước. Song do thế lực cường quyền, tổ chức ấy đành phải tạm lui vào bóng tối.
Gia cảnh thanh bạch, ông nương nhờ nghề dạy học mà tiếp tục ôn văn luyện chữ, ôm hoài bão đăng khoa. Năm Đinh Dậu (1897), ông thi đến trường nhì, song oan khuất ập đến khi bị kết tội “hoài hiệp văn tự” vì bạn hữu vô ý để sách vào tráp. Hậu quả là án chung thân bất đắc ứng thí – suốt đời không được thi cử.
Tưởng lửa chí tắt, nào ngờ càng thêm cháy bỏng. Ông vào kinh thành Huế mở lớp dạy học, danh tiếng vang xa, đến tai triều đình. Nhờ sự can thiệp của chư quan và lòng nhân của vua Thành Thái, án xưa được xóa bỏ. Khoa thi năm Canh Tý (1900), ông đỗ đầu trường thi Nghệ An, được xưng tụng là “Giải nguyên”, càng khiến tài danh lẫy lừng khắp cõi.
Phan Bội Châu không chỉ là một nhà nho tài hoa mà còn là người tiên phong khai đường cứu nước. Ông là vị thủ lĩnh tinh thần cho phong trào Duy Tân, Đông Du, người thổi luồng gió cách mạng vào tâm khảm thanh niên đương thời, đặt nền móng cho ý thức dân quyền và chủ nghĩa quốc gia về sau.
Dấn thân cách mạng – Lập hội Duy Tân, dấy phong trào Đông Du
Bước sang ngưỡng tuổi ba mươi, khi lòng người tang thương dưới ách đô hộ, Phan Bội Châu không chọn lối an phận của bậc nho sĩ, mà một lòng dấn thân vào con đường cách mạng. Ý thức được rằng nước mất không thể chỉ mong vào ngòi bút hay chiếu biểu, ông chuyển mình từ nhà nho thành chí sĩ hành động.
Năm 1904, cùng các đồng chí như Cường Để, Lương Văn Can, Nguyễn Thượng Hiền… ông đứng ra sáng lập Hội Duy Tân, lấy tinh thần “canh tân quốc dân“, “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” làm tôn chỉ. Hội ra đời tại Quảng Nam, vùng đất nổi danh với nhiều nghĩa sĩ, nhanh chóng lan rộng ảnh hưởng ra khắp Trung, Bắc, Nam kỳ.
Phan Bội Châu và Cường Để tại Nhật thời Đông Du.
Nhưng Phan Bội Châu không dừng ở lý tưởng trong nước. Thấu hiểu thời cuộc Đông Á, ông quyết định đưa ánh nhìn vượt biển. Năm 1905, ông sang Nhật Bản, quốc gia phương Đông duy nhất khi ấy đã thoát khỏi nanh vuốt thực dân và dựng nên cường quốc. Từ đây, phong trào Đông Du ra đời – vận động thanh niên Việt sang Nhật học tập, hun đúc chí khí, tiếp thu kiến văn mới để ngày sau trở về phụng sự quê hương.
Chỉ trong vòng vài năm, hơn 200 sĩ tử Đông Du được đưa sang đất Nhật, trở thành hạt giống của khát vọng độc lập. Những tên tuổi như Nguyễn Trọng Hiệp, Nguyễn Kim Cương, Đặng Tử Kính… đều là kết tinh từ phong trào ấy. Cũng trong thời kỳ này, Phan Bội Châu đã thiết lập mối liên hệ với các chí sĩ Trung Quốc như Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn, cùng nhau luận đàm quốc sự và tìm đường cứu quốc cho cả châu Á đang u mê dưới bóng thực dân.
Song con đường cách mạng không trải hoa hồng. Năm 1908, trước sức ép của thực dân Pháp, chính phủ Nhật trục xuất Phan Bội Châu cùng các đồng chí, khiến phong trào Đông Du phải tạm thời ngưng đọng. Tuy nhiên, ngọn lửa Duy Tân đã kịp bùng cháy trong tâm thức nhân dân và hạt giống Đông Du vẫn âm thầm bén rễ, chờ ngày trổ hoa giữa lòng đất mẹ.
Tái cấu trúc lực lượng – Thành lập Việt Nam Quang phục Hội
Sau khi phong trào Đông Du bị triều đình Nhật trục xuất, Phan Bội Châu không nản chí thoái lui mà càng thêm kiên cường, tiếp tục bôn ba khắp Á châu, tìm minh hữu và dựng lại thế cờ cách mạng. Nhận thấy con đường kháng Pháp cần được tổ chức lại, không thể chỉ dựa vào tinh thần sĩ phu mà thiếu bàn tay hành động, ông tiến hành tái cấu trúc lực lượng cứu quốc.
Năm 1912, tại Quảng Châu (Trung Hoa), giữa thời điểm Trung Quốc đang rúng động sau cuộc khởi nghĩa Tân Hợi, Phan Bội Châu chính thức thành lập Việt Nam Quang phục Hội – một tổ chức cách mạng mang tư tưởng mệnh danh rõ ràng: đánh đổ thực dân, khôi phục quốc gia, kiến lập nền cộng hòa dân chủ.
Quang phục Hội không chỉ là một đoàn thể trí thức như Hội Duy Tân trước đó, mà là một tổ chức vũ trang có kỷ luật, có chiến lược hành động cụ thể. Mục tiêu rõ rệt là dùng bạo động để giành lại độc lập, đặt nền móng cho một nước Việt mới không vua quan, không nô lệ. Tôn chỉ được khắc rõ: “Việt Nam độc lập, dân quyền tự chủ, xã hội bình đẳng“.
Dựng Quang phục Hội – bước ngoặt cách mạng của cụ Phan.
Dưới ngọn cờ Quang phục, nhiều nghĩa sĩ trong và ngoài nước hưởng ứng. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang như tại Thái Nguyên (1917), các hoạt động ám sát, tuyên truyền chống Pháp, phát hành tiền giấy riêng… được tiến hành rầm rộ. Dù phần lớn chưa thành công về mặt quân sự nhưng sức lan tỏa của Quang phục Hội đã gieo niềm hy vọng và thôi thúc cả một thế hệ mới đứng dậy vì non sông.
Việc Phan Bội Châu chọn con đường dựng quốc bằng hành động cụ thể, thay vì chỉ cầu viện hay chờ đợi thời cơ, cho thấy tầm nhìn cách mạng vượt thời đại. Ông không chỉ là nhà lý luận mà còn là người kiến thiết thực tiễn, một trong những bậc tiền phong khai mở con đường cho các phong trào giải phóng dân tộc sau này.
Một đời cống hiến – Bậc tiền phong trong phong trào cứu quốc
Tên tuổi Phan Bội Châu khắc sâu trong trang sử nước Nam như ánh sao đầu tiên giữa bầu trời đêm mất nước. Suốt một đời trọn lòng với sơn hà, ông đã đi từ những dòng thơ yêu nước đến những hành động thiết thực dựng cờ cách mạng. Từ Duy Tân Hội đến Việt Nam Quang phục Hội, từ phong trào Đông Du đến các cuộc khởi nghĩa, ông vừa là người gieo hạt giống, vừa là kẻ dẫn đường giữa phong ba thời cuộc.
Cuộc đời của Phan không trọn vẹn nơi vinh quang mà đong đầy gian truân, lưu đày và mất mát. Nhưng chính trong tận cùng khổ ải ấy, ánh sáng tư tưởng dân quyền, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần khai sáng mà ông truyền dạy vẫn cháy âm ỉ và lan rộng trong lòng thế hệ kế tục. Ông không chứng kiến ngày đất nước độc lập, nhưng chính ngọn lửa ông nhen đã tiếp sức cho những người như Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh… trên bước đường cứu quốc.
Phan Bội Châu là người của thời đoạn giao thoa – giữa cũ và mới, giữa di sản phong kiến và khát vọng dân chủ. Ông là nhịp cầu nối quá khứ oai hùng với tương lai rộng mở. Trong tâm thức dân tộc, ông không chỉ là một chí sĩ cách mạng, mà là biểu tượng của tinh thần kiên cường, khai phóng và bất khuất – một “thiên cổ hùng nhân” giữa buổi quốc biến suy vi.
Một đời vì nước, trọn đạo làm dân, danh xưng Phan Bội Châu mãi là ánh đuốc giữa đêm dài nô lệ, mở đường cho ngày mai rạng rỡ.