Trần Đại Nghĩa và hành trình trở về nước cùng Bác Hồ
Năm 1946, Trần Đại Nghĩa, một trí thức trẻ, đã có cuộc gặp gỡ mang tính bước ngoặt với Bác Hồ tại Pháp. Sau cuộc trò chuyện, ông quyết định theo Bác trở về Việt Nam để tham gia cuộc chiến đấu giành độc lập. Ông trở thành Cục trưởng đầu tiên của Cục Quân giới và được gọi là “Ông vua vũ khí” của Việt Nam.
Hành trình theo chân Bác về với Tổ quốc
Đại tá Trần Dũng Triệu, con trai thứ của Trần Đại Nghĩa, chia sẻ:
“Quê tôi ở Vĩnh Long, Nam Bộ. Gia đình ông bà nội là nhà giáo nghèo. Ba tôi, sinh năm 1913, tên là Phạm Quang Lễ. Ông nội mất khi ba mới 6 tuổi, ba được má và chị Hai chăm sóc, nuôi ăn học. Đến giữa năm 1933, ông thi đỗ đầu cả hai bằng tú tài (Việt và Pháp), nhưng do gia đình khó khăn không có điều kiện ra Hà Nội học, ông phải đi làm phụ giúp gia đình, chờ thời cơ.
Chân dung giáo sư Trần Đại Nghĩa
Sau hai năm làm việc tại các sứ quán, may mắn gặp nhà báo Dương Quang Ngưu, người đã giúp ông nhận được học bổng Chasseloup-Laubat để du học tại Pháp. Với đam mê khoa học, ba tôi đã xin học cùng lúc chương trình của 5 trường: Bách khoa Paris, Sorbonne, Mỏ, Điện, và Cầu đường. Ông tốt nghiệp với bằng cử nhân Toán và các bằng kỹ sư.
Sau đó, làm việc tại Viện Nghiên cứu Hàng không – Vũ trụ quốc gia và năm 1942, sang Đức làm việc tại xưởng chế tạo máy bay và Viện Nghiên cứu vũ khí. Các loại bom bay V1, V2 từng gieo rắc kinh hoàng cho dân Anh cũng là sản phẩm từ Viện nơi ba tôi làm việc…”
Trần Đại Nghĩa quyết định hồi hương
Vào mùa hè năm 1946, Phạm Quang Lễ cùng đông đảo kiều bào Việt Nam tại Paris đã ra sân bay Le Bourget đón Chủ tịch Hồ Chí Minh theo lời mời của Chính phủ Pháp.
Dù đã từng nghe danh Nguyễn Ái Quốc, đây là lần đầu tiên ông Lễ được tận mắt chứng kiến Người: “một cụ già hơi gầy, có bộ râu thưa, trang phục giản dị với bộ ka-ki màu vàng nhạt, không đeo huân chương. Đôi mắt sáng và vầng trán rộng là điều khiến tôi ấn tượng nhất” – ông viết trong hồi ký khi ở tuổi 80.
Trong thời gian này, phái đoàn Chính phủ Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu cùng với các thành viên như Tạ Quang Bửu, Phan Anh,… tham gia Hội nghị Fontainebleau với Chính phủ Pháp. Bác Hồ thường xuyên gặp gỡ và trao đổi với phái đoàn và trong dịp đó, Chủ tịch Hội Việt kiều tại Paris đã giới thiệu một số trí thức yêu nước cho Người.
Phạm Quang Lễ đã có cơ hội được gặp và trò chuyện với Bác, thậm chí còn tháp tùng Người đi thăm một số địa điểm trong và ngoài Paris. Sự giản dị, đức độ và nhân cách của Bác Hồ đã hoàn toàn thu phục ông.
Khi Hội nghị Fontainebleau không đạt kết quả như mong đợi do sự kéo dài cố ý từ phía Pháp, vào ngày 10/9/1946 Bác Hồ đã gọi ông Lễ tới và nói: “Hội nghị không thành công, Bác sắp về nước. Chú chuẩn bị đi cùng Bác, vài ngày nữa chúng ta lên đường. Chú đã sẵn sàng chưa?”. Ông Lễ lập tức trả lời: “Thưa Bác, cháu đã sẵn sàng về nước”. Lúc đó, ông đang làm việc tại xưởng chế tạo máy bay và chỉ cần viết đơn xin nghỉ việc là có thể trở về.
Sau hơn mười năm học tập và làm việc tại Pháp (1935-1946), ông Lễ đã âm thầm nghiên cứu và thu thập tài liệu về chế tạo vũ khí. Nhờ các mối quan hệ và khả năng của mình, ông đã bí mật gom góp hơn 3 vạn trang tài liệu về vũ khí và công nghệ, tổng cộng hơn 1 tấn. Số tài liệu này được đóng gói, dán nhãn “ngoại giao” để mang về nước, chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến.
Trần Đại Nghĩa và Bác Hồ trên chuyến hải trình cùng phái đoàn
Trên con tàu quân sự Dumont d’Urville trở về Việt Nam, cùng tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh là các thành viên như nhà tư sản Đỗ Đình Thiện, đại tá cận vệ Vũ Đình Huỳnh và bốn Việt kiều gồm kỹ sư đúc – luyện kim Võ Quý Huân, bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư mỏ Võ Đình Quỳnh và Phạm Quang Lễ.
Ngày 19/9/1946, tàu khởi hành từ cảng Toulon. Sau Hội nghị Fontainebleau, tình hình quan hệ Việt – Pháp trở nên căng thẳng, khiến mọi người lo lắng cho chuyến hành trình kéo dài trên biển.
Tất cả đều lo lắng về viễn cảnh chiến tranh có thể bùng nổ khi họ vẫn còn lênh đênh ngoài khơi, không khác gì “cá chậu, chim lồng”. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ sự bình thản đáng ngưỡng mộ, Người chỉ đạo mọi người giữ nếp sống trật tự, tổ chức các hoạt động sinh hoạt, đọc sách báo trên tàu để duy trì tinh thần.
Khi tàu đi vào vùng Địa Trung Hải, phía Pháp tổ chức “tập trận” với 150 binh lính và sĩ quan trên tàu. Còi báo động rú lên, sàn tàu rung chuyển, tiếng pháo nổ ầm ĩ, khói đạn bốc mù trời,… Tất cả dường như nhằm mục đích uy hiếp đoàn Việt Nam. Tuy nhiên, Bác Hồ vẫn tỏ ra bình tĩnh, giữ thái độ như không có gì xảy ra. Sự khéo léo trong cách ứng xử của phái đoàn Việt Nam đã khiến phía Pháp phải thay đổi thái độ, chỉ thực hiện thêm một lần “tập trận” để giữ thể diện.
Trong chuyến hành trình, theo đề nghị của Bác, tàu dừng lại ở bốn địa điểm: Kênh đào Suez, Ceyland (nam Ấn Độ), Nha Trang và ngoài khơi Hải Phòng. Tại mỗi điểm dừng, chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng thư ký và cận vệ được phép lên bờ.
Hành trình dài ngày trên biển là cơ hội quý báu để Phạm Quang Lễ sống gần Bác và học hỏi từ Người. Khoảng thời gian gần ba tháng này giống như một lớp học đặc biệt, nơi ông được tiếp thu những kiến thức đúc kết từ tinh hoa dân tộc, phương pháp luận khoa học và truyền thống đạo lý phương Đông lẫn phương Tây.
Ngày 20/10/1946, tàu cập cảng Hải Phòng. Cùng nhân dân Hải Phòng, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp đã ra đón đoàn. Võ Nguyên Giáp xúc động ôm Phạm Quang Lễ và nói: “Nghe tin anh về với Bác, chúng tôi rất mừng!”. Phạm Quang Lễ khiêm tốn đáp lại: “Cảm ơn anh! Tôi mới về, chưa làm được gì. Các anh ở nhà chắc vất vả lắm.”
Trần Đại Nghãi là cái tên Bác đặt
Ngay khi về Hà Nội, Phạm Quang Lễ được Thứ trưởng Quốc phòng Tạ Quang Bửu đưa lên Thái Nguyên để thử nghiệm đạn Bazooka do Mỹ (OSS) tặng cho Bác Hồ. Loại vũ khí mới này được quân đội Mỹ sử dụng trong chiến dịch đổ bộ Normandi năm 1944.
Sau khi thử nghiệm thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi ông đến giao nhiệm vụ làm Cục trưởng Cục Quân giới và đề nghị ông chọn một tên bí mật để bảo vệ an toàn cho bản thân và gia đình. Phạm Quang Lễ khiêm tốn xin Bác đặt tên cho mình và Người đã chọn cái tên “Trần Đại Nghĩa” với ý nghĩa “phục vụ nhân dân là nghĩa lớn.”
Bác Hồ và giáo sư Trần Đại Nghĩa
Ngay sau ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, Trần Đại Nghĩa đã bắt đầu lãnh đạo việc sản xuất vũ khí cho quân đội từ những vật liệu sẵn có. Với sự sáng tạo không ngừng nghỉ, đội ngũ của ông đã chế tạo thành công những khẩu súng Bazooka và sử dụng chúng để bắn hạ các xe tăng của quân Pháp trong chiến dịch Việt Bắc Thu đông 1947, tạo nên những thắng lợi vang dội cho quân đội ta.
Những chiến công này đã góp phần quan trọng vào việc phá vỡ các chiến lược tấn công của Pháp. Cuối năm 1947, Trần Đại Nghĩa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định phong hàm Thiếu tướng cùng với 10 cán bộ cao cấp khác của quân đội.
Gs. Trần Đại Nghĩa chế tạo thành công súng SKZ
Trong những năm tháng khó khăn của cuộc kháng chiến, khi Việt Nam chưa có dàn phóng đạn Cachiusa, Trần Đại Nghĩa đã ấp ủ giấc mơ chế tạo loại vũ khí bộ đội có thể mang trên vai nhưng có sức công phá tương đương với những cỗ đại bác nặng đến 6 tấn.
Ông và các kỹ sư như Hoàng Đình Phu, Bùi Minh Tiêu, Nguyễn Trinh Tiếp, Phạm Đồng Điện, Nguyễn Văn Hường đã cùng nhau nghiên cứu các loại vũ khí tương tự mà quân đội Mỹ từng sử dụng để tấn công lên đảo Okinawa, Nhật Bản. Kết quả là sự ra đời của súng SKZ (viết tắt của “súng không giật”).
Súng SKZ – Vũ khí của Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa
Vào đầu năm 1950, trong Chiến dịch Lê Hồng Phong, ngay tại trận Phố Lu, quân đội ta đã sử dụng SKZ phá hủy thành công các lô cốt có tường bê tông dày hơn 1m. Tiếp theo đó là những công trình nghiên cứu về đạn bay.
Những thành tựu này đã đưa Trần Đại Nghĩa trở thành trí thức Việt Nam đầu tiên được trao danh hiệu Anh hùng lao động tại Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua năm 1952. Sau này, ông còn được Nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 vì “Cụm các công trình nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo vũ khí” trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Cống hiến đến hơi thở cuối cùng
Suốt cuộc đời mình, Trần Đại Nghĩa đảm nhiệm nhiều trọng trách quan trọng như:
— Cục trưởng Cục Pháo binh;
— Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần;
— Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật;
— Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết Cơ bản;
— Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật;
— Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam;
— Thứ trưởng Bộ Công thương;
— Chủ tịch đầu tiên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam;
— Hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại biểu Quốc hội khoá II, III;
— Năm 1966, ông được bầu làm Viện sĩ nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Những cống hiến của Trần Đại Nghĩa cho đất nước đã được vinh danh với Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lao động. Ông qua đời vào 16 giờ 20 phút ngày 9/8/1997, hưởng thọ 85 tuổi và để lại di sản to lớn cho đất nước.
Cuộc gặp gỡ giữa Bác Hồ và Trần Đại Nghĩa đã ghi dấu một bước ngoặt quan trọng, biến ông thành một biểu tượng của trí thức yêu nước, cống hiến hết mình cho dân tộc. Sự lựa chọn trở về của ông không chỉ thể hiện lòng trung thành với đất nước mà còn khẳng định tầm ảnh hưởng của Bác Hồ trong việc gắn kết và truyền cảm hứng cho những người con xa quê, để họ cống hiến cho sự nghiệp độc lập và phát triển của dân tộc.