Đồng chí Trần Đăng Ninh: Vị “Bao Công” của cách mạng Việt Nam

Đồng chí Trần Đăng Ninh là ai mà được ví như “Bao Công” của cách mạng Việt Nam? Với sự kiên trung, tài năng và tinh thần lãnh đạo mẫu mực, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc, khiến những câu chuyện về ông luôn thu hút và đầy cảm hứng. Cùng khám phá về cuộc đời và sự nghiệp của một nhà lãnh đạo vĩ đại qua những cống hiến vĩ đại.

Trần Đăng Ninh – Tiểu sử và sự nghiệp cách mạng

Đồng chí Trần Đăng Ninh (tên thật là Nguyễn Tuấn Đáng), sinh năm 1910 tại thôn Quảng Nguyên – xã Quảng Phú – huyện Ứng Hòa – tỉnh Hà Đông (nay là xã Quảng Phú Cầu – huyện Ứng Hòa – Hà Nội).

Năm 1935, trong thời gian làm công nhân tại Nhà in Lê Văn Tân, với tinh thần kiên cường và lòng yêu nước nồng nàn, đồng chí đã sớm giác ngộ Chủ nghĩa Cộng sản và bước vào con đường cách mạng.

Đến năm 1936, đồng chí tham gia Phong trào Đông Dương Đại hội và được bầu vào Ban Chấp hành Nghiệp đoàn ái hữu thợ in Hà Nội. Tháng 7 cùng năm, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, trở thành một chiến sĩ cách mạng nhiệt huyết và xuất sắc.

Chân dung đồng chí Trần Đăng Ninh

Chân dung đồng chí Trần Đăng Ninh

Năm 1939 khi mới gần 30 tuổi, đồng chí được chỉ định vào Thành ủy Hà Nội và năm 1940 tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ. Đặc biệt, vào tháng 9/1940, đồng chí được cử lãnh đạo phong trào Bắc Sơn trong bối cảnh cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ.

Tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và sau đó làm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Tuy nhiên, tháng 11/1941, đồng chí bị bắt và giam cầm tại nhà lao Hỏa Lò và sau đó bị đày lên nhà lao Sơn La. Dù bị giặc Pháp tra tấn và giam cầm khắc nghiệt, đồng chí vẫn kiên trung, tiếp tục hoạt động bí mật trong Ban đấu tranh nhà lao và Chi bộ đặc biệt tại Sơn La.

Giữa năm 1943, đồng chí đã vượt ngục thành công, bắt liên lạc với cách mạng và tiếp tục hoạt động cùng đồng chí Hoàng Quốc Việt trong Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ. Đến tháng 12/1943, đồng chí bị bắt lần thứ hai và giam giữ tại Hỏa Lò. Tuy nhiên, đêm 9/3/1945, đồng chí một lần nữa vượt ngục thành công khi lợi dụng thời điểm Nhật đảo chính Pháp và tiếp tục hoạt động cách mạng.

Tháng 4/1945, đồng chí được cử vào Ủy ban Quân sự Bắc Kỳ sau đó tham gia Bộ Tư lệnh đầu tiên của Việt Nam Giải phóng quân vào tháng 5. Tháng 8/1945, đồng chí tham gia Ủy ban Tổng khởi nghĩa và đóng góp tích cực vào thành công của Cách mạng Tháng Tám. Sau đó, đồng chí được chỉ định vào Ban Chấp hành Tổng bộ Việt Minh, tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo cách mạng đầy vinh quang.

Cuối năm 1946, sau khi giặc Pháp phá bỏ Hiệp ước sơ bộ ký kết ngày 6/3/1946 giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, chính thức mở màn cho cuộc kháng chiến chống Pháp.

Trong bối cảnh đó, đồng chí Trần Đăng Ninh được Trung ương Đảng giao nhiệm vụ quan trọng là bố trí, di chuyển các cơ quan của Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc. Đồng chí trở thành phái viên của Chính phủ và được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao phó nhiều trọng trách, bao gồm việc giải quyết các nhiệm vụ đặc biệt liên quan đến nhiều chính sách quan trọng của Đảng như: chuẩn bị căn cứ địa Việt Bắc, chính sách dân tộc, tôn giáo và chính sách đối với các nhân sỹ, trí thức.

Đồng chí Trần Đăng Ninh và những người đồng đội của ông

Đồng chí Trần Đăng Ninh và những người đồng đội của ông

Trong giai đoạn đầy gian khổ và thách thức khi Đảng vừa giành được chính quyền đã phải bước vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, Trung ương Đảng vẫn đặc biệt coi trọng việc xây dựng Đảng và giữ nghiêm kỷ luật.

Ngày 16/10/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thành lập Ban Kiểm tra Trung ương, cơ quan kiểm tra chuyên trách đầu tiên của Đảng, với đồng chí Trần Đăng Ninh được giao trọng trách làm Trưởng ban. Trong vai trò mới, đồng chí đã cùng các cơ quan kiểm tra ở Trung ương và các khu ủy hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ quan trọng do Trung ương và các cấp ủy giao phó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp giao nhiều vụ việc quan trọng cho đồng chí Trần Đăng Ninh thực hiện.

Năm 1949, đồng chí được bổ nhiệm vào Đảng đoàn Mặt trận Dân tộc Thống nhất, giữ chức Phó Tổng thanh tra Chính phủ và gia nhập Ban Giám sát Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Đến năm 1950, đồng chí được phái sang Trung Quốc thiết lập quan hệ và kêu gọi sự chi viện cho cuộc kháng chiến. Sau khi trở về nước, đồng chí tiếp tục đảm nhận vai trò đặc phái viên của Chính phủ, phụ trách công tác cầu đường và vận tải phục vụ tiền tuyến.

Tháng 7/1950, đồng chí được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp thuộc Bộ Quốc phòng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và tiếp tục phụ trách công tác hậu cần trong quân đội.

Mặc dù mắc bệnh hiểm nghèo, đồng chí đã chiến đấu đến những ngày cuối cùng của cuộc đời và ra đi vào tháng 10/1955, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho đồng bào và chiến sĩ cả nước.

Ghi nhận những cống hiến to lớn của đồng chí Trần Đăng Ninh, Đảng và Nhà nước đã truy tặng đồng chí Huân chương Độc lập hạng Nhất và Huân chương Sao Vàng, biểu tượng cao quý của lòng trung thành và sự hy sinh cho sự nghiệp cách mạng dân tộc.

Trần Đăng Ninh – Tấm gương liêm chính và giản dị

Mặc dù chỉ giữ chức Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương trong 2 năm (1948-1950), nhưng đồng chí Trần Đăng Ninh đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm với những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và giữ nghiêm kỷ luật Đảng, xử lý nhiều vụ việc phức tạp, khó khăn.

Trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp ngày càng khốc liệt, đồng chí đã không ngại đảm nhận những nhiệm vụ cam go do Trung ương Đảng và Bác Hồ giao phó, đặc biệt là công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật, xử lý các vụ việc có liên quan đến chính sách quan trọng của Đảng.

Một trong những vụ việc điển hình nhất chính là vụ “Gián điệp H122”. Năm 1948, quân báo nhận được tin rằng phòng Nhì Pháp đã cài một gián điệp mang bí số H122 vào cơ quan chỉ huy của ta ở liên khu Việt Bắc và tên này đã chuyển thông tin về kế hoạch quân sự Thu – Đông 1948 cho địch.

Tin tức này khiến khắp các đơn vị ở Việt Bắc rơi vào tình trạng nghi ngờ lẫn nhau, nhiều cán bộ cấp cao và quần chúng bị bắt giữ. Trong đó, một đồng chí giám mã (người chăm ngựa) bị cáo buộc là gián điệp H122 chỉ vì vô tình cầm chiếc khăn trắng khi máy bay địch bay qua.

Sự nóng vội, thiếu kinh nghiệm trong công tác điều tra đã dẫn đến việc đồng chí giám mã này bị ép nhận tội và khai ra nhiều cán bộ khác. Vụ việc lan rộng với hàng trăm cán bộ bị bắt giam, gây hoang mang và rối loạn nội bộ.

Trước tình hình đó, Bác Hồ đã tin tưởng giao nhiệm vụ cho đồng chí Trần Đăng Ninh – lúc bấy giờ là Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương – trực tiếp xử lý vụ án. Đồng chí Trần Đăng Ninh đã tổ chức một đoàn kiểm tra gồm những cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao, đồng thời yêu cầu mọi quá trình điều tra phải diễn ra thật thận trọng, khách quan.

Trong quá trình thẩm tra, đồng chí phát hiện ra nhiều mâu thuẫn trong lời khai và bằng chứng. Điều khiến ông nghi ngờ lớn nhất chính là việc một anh giám mã không biết chữ, chỉ chăm sóc ngựa hàng ngày, lại bị cáo buộc là gián điệp và vụ việc “vẫy cờ trắng” báo hiệu máy bay địch thực tế không thể xảy ra từ một khu rừng rậm.

Bác Hồ và đồng chí Trần Đăng Ninh

Bác Hồ và đồng chí Trần Đăng Ninh

Với tinh thần tôn trọng sự thật và chứng cứ, đồng chí đã khéo léo vận động anh giám mã và những cán bộ bị bắt khác khai ra sự thật. Kết quả điều tra cho thấy không hề có gián điệp H122 nào và tất cả chỉ là hệ quả của những biện pháp thẩm tra quá khích, gây oan sai cho hàng trăm cán bộ và quần chúng.

Ngay lập tức, đồng chí Trần Đăng Ninh ra lệnh thả tự do cho những người bị bắt oan và khép lại vụ án. Những cán bộ mắc sai lầm trong vụ án cũng bị kiểm điểm nghiêm khắc. Vụ án “Gián điệp H122” không chỉ giúp minh oan cho hàng trăm cán bộ vô tội mà còn trở thành một bài học quan trọng cho công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong tương lai.

Bên cạnh đó, đồng chí Trần Đăng Ninh còn xử lý nhiều vụ việc quan trọng khác. Trong vụ “Hóa chất miền Nam” liên quan đến kỹ sư Việt kiều ở Pháp về nước theo lời kêu gọi của Bác Hồ, đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo điều tra tại Liên khu IV, xác định sự thật và giải oan cho kỹ sư này, trả lại danh dự cho một trí thức yêu nước.

Đồng chí cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thuyết phục giám mục Lê Hữu Từ ở Phát Diệm – Ninh Bình và “Vua Mèo” Vương Chí Sình ở Đồng Văn – Hà Giang ủng hộ cách mạng và tham gia kháng chiến. Đây là những nhiệm vụ khó khăn nhưng có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng.

Đặc biệt, vụ án tham ô nổi tiếng của Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu là một trong những vụ việc điển hình mà đồng chí Trần Đăng Ninh đã xử lý. Trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp, Trần Dụ Châu đã lợi dụng chức vụ để tham ô tài sản quân đội, dung túng cho cấp dưới làm sai trái.

Với tinh thần liêm chính và quyết đoán, đồng chí đã đưa Trần Dụ Châu ra trước tòa án quân sự và Trần Dụ Châu bị tuyên án tử hình, trở thành bài học lớn về liêm chính, chống tham nhũng trong quân đội thời bấy giờ. Sau khi xử án, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bác đơn xin tha tội của Trần Dụ Châu, khẳng định quyết tâm của Đảng và Chính phủ trong việc xử lý nghiêm minh những hành vi tham nhũng, bất chính.

Sự công minh, chính trực của đồng chí Trần Đăng Ninh còn được thể hiện qua những vụ việc nhỏ nhưng đầy ý nghĩa. Một lần, đồng chí phát hiện một trạm trưởng bị bắt oan ở Bắc Kạn vì bị cho là tham ô công quỹ. Khi điều tra, đồng chí phát hiện ra người trạm trưởng này chỉ nhập nhằng sổ sách chứ không có ý định biển thủ. Ngay lập tức, đồng chí ra lệnh thả người và kiểm điểm những cán bộ liên quan vì bắt giam người khi chưa có đủ bằng chứng. Hay trong vụ việc một Phó chủ tịch huyện ở Hòa Bình đánh dân, đồng chí đã không chấp nhận việc “chiếu cố” mà quyết định kỷ luật cách chức để làm gương.

Tất cả những vụ việc mà đồng chí Trần Đăng Ninh trực tiếp xử lý đã trở thành bài học quý giá trong công tác kiểm tra, giám sát và giữ nghiêm kỷ luật Đảng. Ông được nhiều thế hệ cán bộ và nhân dân kính trọng, gọi là “Bao Công” của Việt Nam – một tấm gương sáng về chí công vô tư, luôn phân xử đúng sai một cách nghiêm minh nhưng đầy tình lý. Những cống hiến và đức độ của đồng chí đã để lại dấu ấn không phai mờ trong lịch sử Đảng và cách mạng Việt Nam.

Những câu chuyện đời thường về nhà cách mạng Trần Đăng Ninh và đồng đội

Năm 1949, nhà cách mạng Trần Đăng Ninh giữ cương vị Ủy viên Trung ương Đảng và Trưởng ban Kiểm tra Trung ương, nơi cơ quan đóng ở Việt Bắc. Dù đêm nào cũng làm việc đến khuya nhưng mỗi sáng, khi anh em trong đơn vị ra rừng lấy gỗ làm nhà hoặc đi tăng gia sản xuất ông cũng đều đi cùng.

Mỗi khi anh em ngăn cản vì lo cho sức khỏe của ông, ông thường đáp lại: “Tôi cũng là người như các đồng chí, tại sao việc các đồng chí làm được, tôi lại không làm được?”.

Thời kỳ đó, đời sống cán bộ còn vô cùng thiếu thốn, gạo ăn hàng ngày thường xấu, có hôm còn phải ăn gạo mốc. Mỗi bữa chỉ có tiêu chuẩn 2 lưng cơm cho một người và dù là lãnh đạo cấp cao, nhưng đồng chí Trần Đăng Ninh cũng không bao giờ ăn vượt quá tiêu chuẩn này.

Một lần ông bận họp, phải ăn sau mọi người, cấp dưỡng thương tình bồi dưỡng thêm cho ông một quả trứng, nhưng ông liền nghiêm khắc phê bình: “Anh em còn ăn uống thế, đồng chí cho tôi ăn thêm, tôi nuốt sao trôi!”.

Thiếu tướng Nguyễn Hữu Lê – người đã từng có 5 năm làm bí thư riêng cho đồng chí Trần Đăng Ninh kể lại rằng:

Có lần đi công tác xa, chúng tôi chỉ có một con ngựa. Anh Trần Đăng Ninh nhảy xuống bảo tôi cưỡi ngựa cho đỡ mệt. Tôi từ chối vì anh là thủ trưởng, nhưng anh chỉ cười và bảo: ‘Thủ trưởng hay cấp dưới thì cũng đều là người cả, cũng biết mệt như nhau’. Thế là suốt chặng đường, chúng tôi thay phiên nhau cưỡi ngựa, vừa đi vừa trò chuyện, chia sẻ công việc lẫn cuộc sống, quên cả mệt mỏi.

Khi ông bị ốm nặng và sức khỏe suy yếu, anh Ninh thường gọi ông sang ăn cùng để chia sẻ phần tiêu chuẩn cán bộ cao cấp, dù phần tiêu chuẩn đó cũng rất đạm bạc. Đó là những kỷ niệm sâu sắc mà Thiếu tướng Nguyễn Hữu Lê không bao giờ quên về sự giản dị, chân tình của đồng chí Trần Đăng Ninh.

Năm 1950, đồng chí Trần Đăng Ninh nhận nhiệm vụ làm Tổng cục trưởng Tổng cục Cung cấp – tiền thân của Tổng cục Hậu cần, ngay trong lúc toàn bộ bộ máy đang chuẩn bị cho Chiến dịch Biên giới.

Khi một cán bộ cấp dưới đề nghị ông mặc quân phục mới để thể hiện hình ảnh lãnh đạo trong chuyến thị sát, ông từ chối: “Sao lãnh đạo thì phải mặc quần áo mới? Chỉ có tôi và đồng chí đi thị sát, cần gì phải ra dáng với ai?”. Trong ba lô của ông chỉ có 2 bộ quần áo bộ đội cũ rách nhưng ông vẫn kiên quyết không thay.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đồng chí Trần Đăng Ninh luôn ưu tiên cho chiến sĩ những điều kiện tốt nhất. Trong số chiến lợi phẩm thu được từ Pháp, ông là người đầu tiên cấp phát áo ấm cho các chiến sĩ lái xe trên tuyến đường trường.

Và trong một chuyến thăm đơn vị giữa mùa đông lạnh giá, thấy một chiến sĩ trẻ chỉ mặc chiếc áo mỏng ông cùng không ngần ngại cởi chiếc áo len của mình để trao tặng cho người lính ấy, dù sự việc khiến nhiều người xung quanh ngạc nhiên về sự giản dị và tấm lòng của ông.

Những cống hiến và đóng góp của đồng chí Trần Đăng Ninh đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam ghi nhớ sâu sắc. Tên của ông được đặt cho nhiều con đường, trường học và khu lưu niệm. Đặc biệt, bộ tem chân dung của ông cũng đã được phát hành vào năm 1956 để tôn vinh những đóng góp to lớn của ông đối với sự nghiệp cách mạng.

Hình ảnh tưởng nhớ đồng chí Trần Đăng Ninh vào dịp trường Trường THPT Trần Đăng Ninh tổ chức Kỷ niệm 35 năm Ngày thành lập Trường(1977-2012)

Hình ảnh tưởng nhớ đồng chí Trần Đăng Ninh vào dịp trường THPT Trần Đăng Ninh tổ chức Kỷ niệm 35 năm Ngày thành lập Trường(1977-2012)

Xin được nhắc lại lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc Hội thảo kỷ niệm 55 năm Ngày khởi nghĩa Bắc Sơn và 85 năm ngày sinh của đồng chí Trần Đăng Ninh:

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, chúng ta cần có những người như anh Trần Đăng Ninh. Bác Hồ nói: ‘Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, phải xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, con người cộng sản chủ nghĩa’. Phải chăng anh Ninh là một mẫu người mà Bác Hồ muốn xây dựng?…”

Những năm tháng làm việc với anh Ninh là những năm tháng đầy kỷ niệm đẹp đối với tôi. Anh Ninh là tấm gương sáng để noi theo”.

Đồng chí Trần Đăng Ninh là tấm gương sáng ngời trong lịch sử lãnh đạo của Đảng, không chỉ vì tài năng xuất chúng mà còn vì tinh thần cống hiến kiên trung, giản dị và gần gũi. Những đóng góp của ông không chỉ để lại dấu ấn sâu sắc trong sự nghiệp cách mạng mà còn trở thành bài học quý báu cho các thế hệ sau. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Trần Đăng Ninh mãi là nguồn cảm hứng cho lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm và sự tận tụy với dân tộc.

Kể lại câu chuyện Tạ Đình Đề ám sát Bác Hồ